Bác sĩ Trần Ðại Sĩ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, Viện
Pháp-Á
THỬ TÌM LẠI BIÊN GIỚI VIỆT CỔ
Chúng tôi xin
giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc
trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut
Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản
dịch tiếng Việt của Tăng Hồng Minh. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đã
mời một số đông các học giả, trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có
cuộc trao đổi rất thú vị.
Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho
Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique,
viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical
Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng
hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam.
Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991,
dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc
cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc
dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước
đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn
lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông
Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học
giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích
chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một
trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng
tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình
nghiên cứu dưới đây:
J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học
Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The
Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài
liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á
đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống.
ALBERTO-PIAZZA (đại học Torino, Ý): Human
Evolution: Towards a genetic history of
LI YIN, Distribution of halotypes
from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic
human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999.
Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ
tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược đi, đôi khi
cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. Vì vậy độc giả
thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua.
Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả
thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo
dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ,
thay vì ghi ở cuối bài.
Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần,
chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi
công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những
bản do nhiều nơi phổ biến trước đây.
Paris ngày 10-10-2001
Sở Tu thư, Viện Pháp-Á
Kính thưa ông
Viện-trưởng,
Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết:
"Trong lịch sử cổ kim nhân loại, nếu có người may mắn về phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng
đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng đứng
đầu".
Hôm nay tôi trình
bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn
gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy
tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây,
vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi
điêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới.
I. SƠ TẦM VỀ TỘC
VIỆT
Năm lên năm, tôi
học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các
nước vùng Á-châu Thái-bình dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại
tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đình Ðại-Nam (tức Việt-Nam).
Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Ðại-Nam là Bảo Ðại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Ðại-học. Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc.
Ðại cương mỗi bộ
sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau:
« Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương
nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên
Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương
Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai
thái tử rằng:
« Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi
Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta,
phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng
chiếm
Xét triều đại
Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây thì chia làm hai:
1. Thần-Nông Bắc.
Ðến đây triều đại
Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697
trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ
nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là
Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại
Thần-Nông.
2. Triều đại Thần-Nông
Nam.
Thái-tử Lộc-Tục lên làm
vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh-Dương, lúc mười tuổi.
Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay
(1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn
hiến. (1)
[Nội dung bài diễn văn
hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của
dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ
năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời
tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận
đến ở đây.]
Xét về cương giới cổ sử
chép:
« Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương (2), đặt tên nước là
Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái
vua Động-đình là Long-nữõ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết
hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua
Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi
tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước
Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.)
Cổ sử đến đây, không có
gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép:
« Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra
trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị
giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối.
Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết,
để chầu hầu phụ mẫu ».
Một huyền sử khác lại
thuật:
Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên
ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm
mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần »
Các sử gia người Việt
lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch),
nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Ðộng-đình làm Quốc-tổ,
Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm
Quốc-mẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai,
họ đều tự hào:
« Chúng tôi là
con Rồng, cháu Tiên.
Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ».
Chủ đạo của tộc Việt
bắt nguồn từ niềm tin này.
Ghi chú của Tăng Hồng Minh,
Ký giả chuyên về
Văn-minh Ðông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: "Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam
là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm
tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải ngoại hay
không?"
Trả lời: "Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Kết quả là dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau."
Ghi của Tăng Hồng Minh dành cho người Việt:
Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản
Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là:
Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962.
Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977.
Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978.
Tổng bí thư Đỗ Mười 27-4-1993.
|
Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013
Tác phẩm
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A
013001a NHẬP MÔN
013001a NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...
-
http://thuyhavan.blogspot.com/2021/12/giai-ma-huyen-thoai-lac-long-quan-au-co.html HỒNG BÀNG THỊ TRUYỆN, CUỐN SỬ ĐẦU TIÊN ...
-
021007 GÓP PHẦN ĐÍNH CHÍNH VỀ NĂM SINH VÀ NĂM MẤT CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC ...
-
013001a NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét