015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN
LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA
Thái Đông A
A)
DẪN NHẬP
Luật quân bình là luật phổ quát nhất, nó
hiện diện ở mọi thời và mọi nơi. Nó chi phối mọi biến hoá của vũ trụ dù ở tầng
vĩ mô trong thế giới của các thiên thể hay ở tầng vi mô trong thế giới hạ
nguyên tử. Nó chi phối mọi hành vi và hoạt động của con người. Ðằng sau mọi
hiện tượng, biến cố đều có sự hiện diện của luật quân bình. Vì vậy hiểu được
luật quân bình sẽ giúp ta giải quyết được những vấn đề của đời sống con người.
Người Ðông Phương đã sớm nhận ra được luật quân bình và gọi nó
với nhiều tên khác nhau; như ở Việt Nam các hiền giả gọi nó là Vuông Tròn, Tiên
Rồng (tức Âm Dương), còn Lão tử gọi nó là Ðạo, Khổng tử gọi là Thái Cực, Phật
gọi là Chân Như.
Về phương diện này người Tây phương rất chậm chạp và muộn màng.
Họ phải mất 25 thế kỷ (kể từ thời Aristotle tới bây giờ) mới kiếm được ra luật
quân bình mà họ gọi là thực tại lượng tử. Một trong các thực tại lượng tử được
diễn đạt như sau: “Thực tại gồm hai mặt, hai phần: phần tiềm ẩn và phần thể
hiện (Reality is twofold, consisting of potentials and actualities).
Ðây chính là cái mà Ðông phương gọi là Âm Dương. Trong Hệ từ của
Dịch Truyện có nói: “Nhất Âm nhất Dương chi vị Ðạo” – Một Âm một Dương là Ðạo
Trời (hay nói một cách khác là đạo quân bình âm dương).
Ðông Tây đã gặp nhau và đồng thuận về bản chất của sự vật đúng
vào lúc nền văn minh vật chất của Tây phương đang lâm vào một cuộc khủng hoảng
chưa từng thấy trong lịch sử loài người, có nguy cơ đem loài người tới bờ vực
của sự tự huỷ.
Trong tình huống này chúng tôi xin cùng quý vị khảo sát triết lý
Ðại Hoà của người Việt cổ đã được thể hiện rõ nét trong Văn hoá Ðại Việt thế kỷ
thứ 13, thời Lý Trần, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và luật quân bình,
với niềm hy vọng kiếm ra được điều gì lợi ích cho việc giải quyết cuộc khủng
hoảng hiện tại.
B)
LUẬT QUÂN BÌNH
I)
Định Nghĩa
Trước khi bàn về vấn đề gì chúng ta có thói quen định nghĩa danh
từ. Thực ra thì định nghĩa giúp ta hiểu phần nào về vấn đề sắp bàn tới nhưng
nhiều khi định nghĩa cũng giới hạn sự tìm hiểu vấn đề và có thể dẫn tới sai lầm
– nhất là trong việc định nghĩa luật quân bình. Xin được kể một giai thoại về
Socrates, một trong ba đại triết gia Tây phương xây dựng nền văn hoá Tây
phương. Ông ít khi ở nhà, ông thường lang thang đi gặp bạn bè để thảo luận
triết học. Một hôm ông ra đường gặp một chàng trai tuấn tú thông minh, liền đến
làm quen và kéo chàng trai vào quán để chỉ dạy cho chàng trai này cách thức
tranh luận. Ông nói, “Trước khi tranh luận về một vấn đề gì thì phải bắt đối
phương định nghĩa”. Chàng trai liền lễ phép nói, “Thưa thầy, thầy định nghĩa
con người là gì.” Socrates nói, “Con người là một con vật có hai chân biết suy
nghĩ.” Chàng trai bỏ ra về và hôm sau tới nhà Socrates đem theo một con gà đã
nhổ sạch lông, thả vào sân nhà của Socrates và nói, “Thưa thầy, đây là một con
người theo định nghĩa của thầy đấy.” Socrates liền chống chế, “Nó đâu có biết
suy nghĩ.” Chàng trai liền thảy cho con gà một nắm hạt lúa mì và gà liền tới
đớp hết và chàng trai nói, “Nó không suy nghĩ làm sao nó biết được lúa mì là
thực phẩm của nó.” Socrates đành im lặng chịu thua.
Vì vậy chúng tôi sẽ định nghĩa, nhưng xin quý vị hãy chỉ hiểu
cái ý hàm chứa trong những câu văn diễn tả nó mà thôi.
Người ta thường hiểu lầm quân bình là đối xứng, cân đối, nhưng
cân đối và đối xứng không phải là quân bình mà chỉ là sự thể hiện của sự quân
bình. Luật quân bình không nhìn thấy được.
Luật quân bình gồm hai lực bằng nhau tác động ngược chiều và hỗ
tương để tạo sự quân bình hay tái tạo sự quân bình.
Mỗi khi có một lực tác động liền có một phản động lực tương
đương và ngược chiều để tạọ sự quân bình.
Chỉ có hai trạng thái là quân bình và bất quân bình.
Nếu dùng toán học để diễn tả khi quân bình thì A – B = 0.
Vì quân bình đựơc các hiền giả Ðông phương diễn tả là Thái Cực,
Ðạo và Chân Như, đó là trạng thái không còn phân biệt A và B. A là B và B là A
hay A = B và như vậy thì A – B = 0.
Ðây là khái niệm căn bản về luật quân bình và cũng là căn bản
của hệ nhị phân, hay hệ Âm Dương và cũng là nền tảng của Dịch lý và quyển Kinh
Dịch.
Ðể hiểu rõ thêm luật quân bình, xin được nêu ra đây luật thứ ba
của sự chuyển động (3rd law of motion) do Newton
khám phá. Luật đó nói, “Ðối với một lực tác động luôn luôn có một phản động lực
tương đương và ngược chiều”. Nhờ luật này người ta đã chế tạo ra được hoả tiễn
và máy bay phản lực, một yếu tố quan trọng của nền văn minh đương đại. Nhưng
rất ngạc nhiên mà nhận ra rằng chính Newton
cũng không ngờ rằng luật mình kiếm ra là một luật quân bình.
Vì sự phổ quát của luật quân bình và để hiểu rõ hơn luật quân
bình, chúng tôi sẽ khảo sát luật quân bình trong thiên nhiên, trong Ðạo học
Ðông phương, trong khoa Vật lý và trong nền văn minh đương đại.
II) Luật Quân Bình Trong Thiên Nhiên
Trước khi đi vào những lãnh vực nghiên cứu thiên nhiên cần đến
những dụng cụ tối tân như trong ngành vật lý hay sử dụng những phương pháp
thiền định quán chiếu như là phương tiện khảo sát sự vật của các hiền giả
phương Ðông, chúng tôi xin được nêu ra những biểu hiện của luật quân bình có
thể thấy được bằng các giác quan của con người. Có hai loại thể hiện của luật quân
bình trong thiên nhiên: thể tĩnh và thể động.
Ở thể tĩnh, luật quân bình thể hiện ra sự đối xứng, thí dụ trên
thân thể con người chúng ta thấy cái gì cũng đều có hai như hai mắt, hai tai,
hai lỗ mũi, hai tay, hai chân.
Ở thể động, chúng ta thấy gió bão là hiện tượng không khí di
chuyển từ chỗ áp suất không khí cao tới nơi có áp suất không khí thấp để quân
bình lại. Cũng tương tự như vậy chúng ta thấy luật quân bình cũng là nguyên uỷ
của sự thẩm thấu (osmosis).
Trong kinh tế, luật cung cầu là nguyên nhân của sự thay đổi giá
cả.
Chúng ta phải luôn luôn có hai nhịp thở: thở ra và thở vô. Nếu
chúng ta không thở vô thì sự sống sẽ biến mất…
III) Luật Quân Bình Trong Văn Hoá Và Học Thuật Ðông Phương
Có thể nói là người Ðông phương đã sống hoà nhịp với luật quân bình.
Từ ngàn xưa, đạo quân bình được coi như một tiêu chuẩn đạo đức; một người dân
quê chất phác cũng có thể nói về luật quân bình rằng “Có đi có lại mới toại
lòng nhau.”
Trong khi người Tây phương lại không có ý niệm gì về luật quân
bình, mãi gần đây khoa tân vật lý, với những dụng cụ khoa học tối tân nhất, mới
tìm ra được luật quân bình.
Tại sao như vậy? Có lẽ tại vì người Ðông phương đã chọn đúng
phương pháp khảo sát chân lý. Người Tây phương đi ra khỏi tâm, đem lý trí khảo
sát phân tích sự vật, còn người Ðông phương trái lại trở về tâm để khảo sát sự
vật, sử dụng phương pháp quán chiếu thiền định cộng với trực giác, đã sớm nhận
ra luật quân bình và gọi nó bằng nhiều tên khác nhau. Các hiền giả Việt Nam gọi
nó là Vuông tròn, Tiên rồng (tức Âm Dương quân bình), Khổng tử gọi nó là Thái
Cực, Lão tử gọi nó là Ðạo, còn Phật gọi nó là Chân Như. Sở dĩ người Ðông
phương chọn con đường đi về với tâm mình để khảo sát sự vật vì tin rằng nhân
tâm là nơi hội tụ của âm dương; khi tâm ở trạng thái quân bình âm dương thì tâm
trở nên thông tuệ và có thể linh thông được với thiên tâm, vì thiên tâm và nhân
tâm chỉ là một thể, hay nói một cách khác “Vạn vật đồng nhất thể.”
Với luật quân bình Âm Dương, người Bách Việt cổ đã xây dựng nên
quyển Kinh Dịch. Nội dung chính yếu của Kinh Dịch là bàn về lý quân bình và bất
quân bình. Có thể nói là nếu không có Kinh Dịch thì cũng không có văn hoá Ðông
Á, vì các kinh sách cổ của Ðông phương (trừ kinh của Phật giáo) đều dựa vào
Kinh Dịch, đều lấy lý luận của Kinh Dịch làm căn bản. Tứ thư ngũ kinh, Ðạo Ðức
Kinh v.v… đều lấy Kinh Dịch làm kim chỉ nam.
Các cụ ngày xưa thường nói:
“Không học Dịch làm gì rõ được chỗ đầu mối của tạo hoá.
Dịch mà thông thì sự lý trong vạn vật tự thông.
Chưa từng thấy chưa thông Dịch lại thông cả được cái lý của sự
vật.”
Luật quân bình hay luật âm dương quân bình đã được vận dụng
thành những lý luận làm nền tảng cho Ðạo học và các học thuật của Ðông phương
như y học, thiên văn học, phong thuỷ v.v…
Cốt lõi của đạo Khổng là Chánh Tâm. Muốn Chánh Tâm thì phải giữ
tâm ở trạng thái quân bình. Khi Mạnh tử hỏi Tử Tư Chánh Tâm là gì thì Tử
Tư trả lời, “Khi vui quá, buồn quá, giận quá thì Tâm không Chánh được.”
Cốt lõi của đạo Lão là Ðạo mà Ðạo theo định nghĩa ghi trong Hệ
từ của Dịch Truyện là “Nhất Âm nhất Dương chi vị Ðạo” – Một Âm một Dương là Ðạo
Trời, tức là Âm gặp Dương thì có quân bình Âm Dương. Thiệu Khang Tiết nói rõ
hơn “Âm gặp Dương thì hết”, tức là tĩnh lặng.
Kinh Bát Nhã của đạo Phật là kinh quan trọng. Kinh này nói “Sắc
tức thị Không, Không tức thị Sắc”; đó là tình trạng Quân Bình nơi đó không có
phân biệt được A và B, A và B là một.
Về các học thuật Ðông phương, nguyên lý quân bình âm dương được
coi là căn bản cho mọi suy đoán. Như trong Y thuật, quân bình âm dương được coi
như nền tảng cho việc chẩn đoán và chữa bệnh. Khi chẩn bệnh, thấy bệnh
nhân thiếu Dương thì thầy thuốc phải cho thuốc có chứa nhiều Dương để đưa cơ
thể bệnh nhân về thế quân bình. Nếu bệnh nhân thiếu Âm thì phải cho bệnh nhân
uống thuốc chứa nhiều Âm.
Các khoa học khác như phong thuỷ, thiên văn, tử vi, dự đoán học…
cũng đều coi luật quân bình âm dương là luật tắc căn bản.
Thật là thiếu sót nếu không nói một sự kiện đặc biệt là chỉ có
tộc Lạc Việt, tổ tiên của người Việt bây giờ đã lấy Tiên Rồng tức Âm Dương làm
biểu tượng cho dân tộc mình và một sự thật nữa là ngôn ngữ Việt Nam là một ngôn
ngữ nhị phân (binary). Linh mục Lê Văn Lý, giảng sư Ðại học Văn Khoa Sàigòn
trước 1975, đã nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ của ông tại Pháp, về cấu trúc
tiếng Việt và thấy rằng có khoảng 80 phần trăm từ ngữ tiếng Việt là gồm hai chữ
ghép theo lối âm dương như ăn ở, làm ăn , đi lại, ngang dọc, bê bối v.v…
IV) Luật Quân Bình và Khoa Vật Lý
Vật lý là cha đẻ của các ngành khoa học khác như hoá học, thiên
văn học, sinh vật học, sinh hoá học, địa chất học v.v… Vì vậy khảo sát luật
quân bình trong ngành vật lý rất cần thiết để làm sáng tỏ vấn đề văn hoá Ðông
Tây khác nhau.
Mục đích của khoa vật lý là đi tìm những câu trả lời cho những
thắc mắc của con người về thế gíơi vật chất ngoài kia trong thiên nhiên – Ðất
đá, sông ngòi, rừng núi kia là gì, cái gì đã tạo nên chúng? Trong những câu hỏi
đó có lẽ câu hỏi quan trọng nhất mà ai cũng đồng ý là cái gì đã cấu tạo nên thế
giới vật chất mà ta có thể nhìn thấy được và có thể nói Democritus (460 – 370
trước Công nguyên) là một trong những người đưa ra câu trả lời được nhiều người
đồng thuận. Câu trả lời đó là: Vật chất được cấu tạo bởi những hạt nhỏ nhất,
nhỏ đến nỗi không thể nào chia cắt thêm được nữa, nó là đơn vị nhỏ nhất, là
những viên gạch tạo nên căn nhà vũ trụ. Chữ “atom” (nguyên tử) về sau này được
dùng để gọi hạt này. “Atom” là tiếng La tinh có nghĩa là không thể phân chia
được. Democritus thực sự đã đặt viên đá đầu tiên cho toà nhà vật lý cổ điển.
Sau này người ta coi đó như là mục đích tối hậu của ngành vật lý
vì người ta nghĩ rằng nếu kiếm được đơn vị nhỏ nhất tạo nên vũ trụ thì con
người có thể thay tạo hoá làm nên vật chất của cải cần thiết cho nhu cầu hạnh
phúc của con người.
Bằng phương pháp loại suy, người ta suy đoán nếu căn nhà kia làm
bằng trăm ngàn viên gạch thì vũ trụ cũng làm nên bằng tỷ tỷ đơn vị gọi là
nguyên tử (atom). Người ta tin chắc như vậy. Ngay cả Albert Einstein là một
trong những người khởi xướng ra ngành Tân Vật Lý vẫn tin như vậy cho tới khi
ông chết. Nếu người ta không tin như vậy thì cũng không có ngành vật lý.
Ðến đây ta có thể biết tại sao người Tây phương đã chọn con
đường đi ra khỏi tâm để tìm chân lý, lấy lý trí tới với sự vật và khảo sát sự
vật, sử dụng các phương pháp luận lý gồm diễn dịch pháp và quy nạp pháp để kiếm
ra các định luật vật lý và áp dụng nó cho lợi ích của con người.
Muốn sử dụng các phương pháp diễn dịch và quy nạp thì phải đồng
thời công nhận nguyên lý triệt tam. Nguyên lý triệt tam nói “A là A, B là B, A
không thể là B và ngược lại, A không thể vừa là A lại vừa là B.”
Nhưng nếu chấp nhận nguyên lý triệt tam thì cũng phải phủ định
luật quân bình, vì ở tình trạng quân bình như Thái Cực, Ðạo hay Chân Như thì
làm gì có sự phân biệt A, B vì lúc đó A và B chỉ làmột, A là B và ngược lại và
A vừa là A lại vừa là B.
Ðây cũng là bằng cớ cho thấy người Tây phương không có khái niệm
gì về luật quân bình. Nhận thức được điều này rất quan trọng vì nó giải thích
những gì đang xảy ra cho nền văn minh vật chất đương đại, sẽ được bàn tới dưới
đây.
Tới đầu thế kỷ 20, ngành vật lý có những bước tiến nhảy vọt;
ngoài những khám phá về điện Từ Trường của Faraday và Maxwell và thuyết Tương
Ðối của Einstein, khám phá quan trọng nhất làm biến đổi toàn bộ tư duy Tây
Phương là thuyết Lượng Tử và Vật Lý Hạ Nguyên tử.
Người ta phải từ bỏ hết những điều mà người ta tin chắc ngày
xưa. Bây giờ người ta thấy nhân nguyên tử gồm điện tử âm (electron), dương tử
(proton) và trung hoà tử (neutron) không phải là phần nhỏ nhất như người ta
thường nghĩ. Proton và Neutron được cấu tạo bởi nhiều hạt nhỏ nữa gọi là những
hạt Lepton và Hadron. Hadron gồm những hạt Quark. Những hạt này lại không phải
là những hạt thực sự mà chỉ là hạt ảo vì chúng có những hành tung bất định lúc
thì là hạt, lúc là sóng, vô phương xác định vị trí và tốc độ của chúng. Người
ta phải sử dụng thống kê để ước đoán về vận tốc và vị trí của chúng.
Werner Heisenberg đã phải đưa ra một nguyên lý gọi là nguyên lý
Bất Ðịnh (principle of uncertainty). Nguyên lý này nói “Các hạt xuất hiện bất
định, người ta không thể biết chắc các hạt xuất hiện lúc nào và bao giờ với tốc
độ bao nhiêu, chỉ có thể ước đoán bằng toán thống kê mà thôi.”
Einstein nhất định không chấp nhận nguyên lý bất định và nói:
“Chẳng lẽ Thượng Ðế chơi trò hên xui may rủi? Phải có điều gì đó mà ta chưa
biết đấy thôi.”
Các khoa học gia cùng thời với Einstein cho rằng Einstein sai
lầm. Thực ra Einstein chỉ sai lầm là không chấp nhận nguyên lý bất định nhưng
có lý khi nói phải có một cái gì đó mà ta chưa biết. Thực vậy cái mà ta chưa
biết chính là luật quân bình; ở thế giới hạ nguyên tử cũng như ở thế giới các
thiên thể, mọi hiện tượng, mọi biến hoá đều có sự chi phối của luật quân bình.
Ðiều này sẽ được bàn tới trong bài này.
Ngoài ra phải nói tới hiện tượng Tây gặp Ðông cũng như sự kiện
quan trọng là Tây phương đã mất 25 thế kỷ mới gặp được Ðông phương ở hai lãnh
vực quan trọng. Lãnh vực thứ nhất là Tây phương đã tìm ra được luật quân bình
mà họ gọi là Thực tại lượng tử (Quantum reality). Một trong những thực tại
lượng tử mà họ phát hiện được diễn tả như sau:
“Thực tại gồm hai mặt, hai phần, phần tiềm ẩn và phần thể hiện”
(Reality is twofold, consisting of potentials and actualities). Hay có thể nói
là sự vật gồm hai phần âm và dương. Và đã có âm dương là đã có sự quân bình.
Lãnh vực thứ hai là tháng Ba năm 1995 đã ghi nhận một sự kiện
lịch sử quan trọng trong ngành vật lý là Tây phương đã hoàn tất công tác kiếm
ra được một mẫu hình căn bản (standard model) cho cơ cấu nhỏ nhất của vũ trụ;
mẫu hình này cũng giống y đúc mẫu hình căn bản của sự vật được diễn ta trong
các quẻ dịch của Kinh Dịch.
Người Tây phương không biết tới luật quân bình nhưng lại tin ở
sự đối xứng. Họ nhận xét thấy hiện tượng đối xứng luôn luôn xảy ra. Trong thế
giới hạ nguyên tử người ta thấy sự xuất hiện từng cặp như hạt “up quark” đi đôi
với hạt “down quark” và tin rằng phải có một loại đối xứng không phụ thuộc
không gian hình học mà là loại đối xứng mọi chiều kích. Paul Davies gọi nó là
đối xứng trừu tượng (abstract symmetry), còn Howard Haber và Gordon Kane thì
gọi đó là siêu đối xứng (super symmetry). Vì tin ở sự đối xứng ấy nên họ đã tạo
ra một mẫu hình căn bản của cơ cấu nhỏ nhất của vũ trụ và đã lần lượt chứng
minh là mẫu hình đó là đúng, mẫu hình đó là mẫu hình cơ cấu nhỏ nhất của vũ
trụ.
Hạt ảo cuối cùng là “top quark” đã được phát hiện vào tháng Ba
năm 1995, hoàn tất được mục đích của công tác vật lý đã bắt đầu từ 25 thế kỷ
trước đây.
Cần phải nói rõ hơn là thế giới hạt ảo trong hạ nguyên tử là một
thế giới âm dương; những hạt ảo có điện tích dương (+) luôn luôn cặp với một
hạt ảo có điện tích âm (-).
Có ba cặp hạt âm dương như vậy được phát hiện, hạt cuối cùng
được phát hiện như trên đã nói là hạt “top quark” (có điện tích +) thuộc cặp
“top quark” và “down quark”.
Ba cặp hạt có các điện tích âm dương đối nhau được so sánh với
các hào âm dương đối nhau thuộc quẻ Thái trong kinh Dịch như sau:
Mẫu Hình Âm
Dương
Mẫu Hình Âm Dương
của 3 cặp
Quark
của quẻ Thái
bottom quark
(-)
___ ___
strange quark
(-)
___ ___
down quark
(-)
___ ___
top quark (+)
_______
charm quark (+)
_______
up quark
(+)
_______
(Các điện tích của các “quark” được biểu thị bằng + và -, + là
điện tích dương, – là điện tích âm, so sánh với các hào âm dương, __ __
là hào âm, ____ là hào dương)
Quẻ Thái là quẻ thứ 11 trong Thượng kinh – Kinh Dịch có lẽ là
một quyển kinh cổ nhất của loài người gồm 64 quẻ, mỗi quẻ được cấu tạo bởi sáu
hào âm dương, thí dụ như quẻ Thái như đã dẫn ở trên và quẻ Ký Tế sẽ được trình
bày dưới đây.
Kinh Dịch diễn tả sự biến hoá trong trời đất, trong lòng người
bằng các hào và các quẻ âm dương; các hào âm dương được dùng để tượng
trưng cho hai khí căn bản trong vũ trụ.Một điều ngạc nhiên và lý thú là người
ta cũng tìm thấy sự tương tự như vậy trong thế giới hạ nguyên tử: Sự biến hoá
trong thế giới hạ nguyên tử cũng do những hạt ảo âm dương tạo ra và những hạt này
cũng là những hạt căn bản trong thế giới vật chất.
Ba cặp hạt đã nói ở trên hiện diện đầy đủ ở thời kỳ “Big
Bang” và trong phòng thí nghiệm máy nghiền gia tốc (smashing accelerator).
Nhưng trong vật chất ngày hôm nay người ta thấy chỉ còn hiện
diện một cặp hạt “up quark” (+) và “down quark” (-) mà thôi.
Một điều ngạc nhiên nữa là trong nhân nguyên tử cặp hạt ảo này
được sắp xếp theo một mẫu hình giống như quẻ Ký Tế. Proton có 2 “up quark”
dương (+) và 1 “down quark” âm (-); Neutron có 1 “up quark” dương (+) và 2
“down quark” âm (-) (như trình bày dưới đây).
Trong Kinh Dịch, sau khi biến hoá 62 lần (hay qua 62 quẻ) mới
tới lần thứ 63 thành quẻ Ký Tế; lúc này cũng giống như các cặp “quark” trong
nhân nguyên tử (proton và neutron).
Mẫu Hình
Mẫu Hình trong
trong Nhân Nguyên
Tử
Kinh Dịch
(Proton và
Neutron)
(Quẻ Ký Tế)
down quark
(-)
___ ___ (-)
neutron up
quark
(+)
_______ (+)
down quark
(-)
___ ___ (-)
proton up
quark
(+)
_______ (+)
down quark (-)
___ ___ (-)
up
quark (+)
_______ (+)
Một điều cần nêu ra để chúng ta suy ngẫm về hai nền văn hoá đó
là với những phương cách đơn giản là thiền định, quán chiếu cộng với khả năng
trực giác người Ðông phương đã đạt tới chân lý từ bốn, năm ngàn năm trước trong
khi người Tây phương phải mất 25 thế kỷ suy nghiệm và với những dụng cụ khoa
học đáng giá cả chục tỷ đô la mới tìm ra được.
Ngoài ra phải nói về những hệ quả của những khám phá khoa học
vừa nói trên đây, chúng ta thấy rằng những khám phá về thế giới hạ nguyên tử và
thực tại lượng tử đem đến việc từ bỏ loại luận lý hình thức tam đoạn luận mà
Aristotle đã chế tạo ra làm dụng cụ đi kiếm chân lý, vì trong thế giới lượng tử
và hạ nguyên tử A vừa là A lại vừa là B, các hạt có khi là sóng có khi là
hạt,
lúc thì là sóng lúc là hạt
Hạt
Sóng
Hạt
Thời gian
= Sát na
= 1/ triệu
giây đồng hồ
lúc thì vừa là sóng vừa là hạt
Sóng
Sóng
Hạt
( là sóng, –à được
dùng để biểu thị hạt.)
Vì vậy người ta nói tới loại “quantum logic” hay luận lý lượng
tử. Trong khoa học ngày nay người ta sử dụng một loại luận lý không một chiều
hay luận lý phi tuyến (no-linear), có khi được nói tới một loại luận lý hệ
thống hay là loại tư duy hệ thống (system thinking). (Về những vấn đề này chúng
tôi sẽ trình bày rõ hơn trong dịp khác.)
V) Luật Quân Bình Trong Nền Văn Minh Ðương Ðại
Nền văn minh đương đại đã đạt tới trình độ khoa học kỹ thuật hơn
hẳn tất cả các nền văn minh nhân loại trong quá khứ. Nó đã chinh phục toàn thế
giới, nó len lỏi vào mọi ngõ ngách, có mặt ở mọi nơi mọi chốn kể cả những nơi
rừng sâu nước độc.
Nó vô cùng hấp dẫn vì nó cho người ta hy vọng thoả mãn được
những nhu cầu vật chất. Những nước trước kia nghèo đói, kém mở mang nhìn về Tây
phương với con mắt thèm khát, cố gắng theo cho kịp được đà tiến hoá của những
nước Tây phương tiên tiến.
Ðến bây giờ, sau cả trăm năm Tây hoá với đủ kiểu đủ cách mà vẫn
còn những trí thức Tây học Việt Nam đang hô hào Tây hoá hơn nữa và họ còn lớn
tiếng bôi nhọ văn hoá dân tộc. Không ai có thể chối cãi được văn minh vật chất
đương đại đã đem lại cho con người những tiện nghi vật chất và thực hiện được
những giấc mơ đi mây về gió, ngồi ở nhà mà có thể biết được những chuyện xảy ra
ở xa muôn ngàn dặm.
Ngành kỹ thuật sinh học có khả năng biến một tế bào ở bất cứ chỗ
nào trên cơ thể con người thành một con người có đủ tim óc như chúng ta mà
không cần tới sự thụ thai thông thường.
Con người nắm trong tay quyền năng của Thượng Ðế: Có thể giết
hại triệu triệu người trong nháy mắt, có thể tiêu diệt toàn bộ sinh vật trên
địa cầu nếu muốn.
Trong khi tuyên bố đại thắng trên mặt trận khoa học kỹ thuật thì
loài người phải công nhận những thất bại về nhiều lãnh vực khác.
-
Không đếm xỉa gì tới luật quân bình, chủ nghĩa tiêu thụ thả dàn đã làm cạn kiệt
tài nguyên và gây ô nhiễm sông hồ, biển cả, không khí, thực phẩm.
-
Các nhà tương lai học tiên đoán các nguồn nhiên liệu sẽ cạn kiệt vào năm 2040,
các loại khoáng sản cung cấp cho kỹ nghệ của thế giới cũng sẽ bị cạn kiệt trong
40 hay 50 năm nữa.
-
Chưa bao giờ con người lại lo âu về bệnh tật như bây giờ. Những bệnh tim mạch,
“AIDS”, ung thư… càng ngày càng gia tăng do đời sống trong xã hội văn minh
thiếu quân bình và đầy ô nhiễm.
-
Nước nào cũng tranh đua kỹ nghệ hoá, khí CO2 thải ra càng ngày càng nhiều làm
cho nhiệt độ không khí tăng lên và có nguy cơ làm tan băng tuyết ở Nam, Bắc cực
gây nên nạn lụt lội và tới một mức nào đó tạo sự bất quân bình và trái đất có
thể đổi trục và nạn hồng thủy sẽ xảy ra và tiêu huỷ hoàn toàn sự sống trên trái
đất.
- Vì
kỹ nghệ hoá học tầng Ozone tại Nam cực đã bị chọc thủng làm cho nguy cơ ung thư
tại vùng Nam bán cầu gia tăng.
-
Chủ nghĩa tư bản vẫn chủ trương trục lợi hơn là phục vụ cho nên hiện nay vẫn
còn hai tỷ người thiếu ăn và 800 triệu người đang đói ăn.
-
Thành quả của khoa học kỹ nghệ chỉ để phục vụ những nước giàu có mà thôi: 70%
dân trên thế giới chưa bao giờ nghe thấy tiếng reo của điện thoại.
Nhưng quan trọng hơn hết là loài người chưa biết sống với nhau
trong hoà bình. Trong một thế kỷ vừa qua, loài người đã trải qua chiến tranh
thế giới I, II, chiến tranh lạnh và bây giờ là chiến tranh khủng bố. Ngoài ra,
bà Jessica Williams, một phóng viên của đài BBC, đã cho biết trong một bài
phóng sự là có tới 1/3 dân số trên thế giới hiện nay đang tham gia vào một cuộc
chiến tranh nào đó.
Loài người hầu như không có cách gì để thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng hiện nay. Có một điều nghịch lý là trong khi loài người tạo ra một nền
văn minh vật chất cao như vậy lại đồng thời lâm vào một cuộc khủng hoảng không
có lối thoát. Nguyên uỷ của sự nghịch lý này nằm trong nền văn hoá Tây phương,
có cái gì bất ổn trong nền văn hoá này; như trên đã trình bày ở văn hoá Tây
phương thiếu vắng ý niệm về quân bình.
Triết gia M. Heidegger đã nói “Văn hoá Tây Âu hỏng từ nền tảng
nên truyền bá tới đâu là gieo máu và nước mắt tới đó.”
Thật vậy lịch sử Tây phương là lịch sử của các cuộc xung đột,
chiến tranh. Ðế quốc La Mã đã không ngớt đem quân chinh phục Âu châu, đem máu
và nước mắt gieo rắc khắp nơi, rồi tới chiến tranh tôn giáo, chiến tranh thuộc
địa v.v… Cái “đạo lý” mạnh được yếu thua đó vẫn là những điều được người ta cho
là hợp lý trong xã hội chúng ta.
C) TRIẾT LÝ THÁI HÒA CỦA VIỆT NAM THỜI LÝ TRẤN
Trong hoàn cảnh lịch sử như hiện nay, cần một câu trả lời khẩn
cấp cho câu hỏi “Làm thế nào để cứu loài người ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện
nay, cuộc khủng hoảng có nguy cơ đem loài người tới bờ vực của sự tự huỷ?”
Các vị thức giả Tây phương hầu như đã đồng thuận với câu trả lời
là “Ðể thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay loài người phải chuyển đổi tư
duy.”
Tư tưởng hướng dẫn hành động nên tư tưởng Tây phương đã hư hỏng
rồi như Heidegger đã nhận xét, thì phải thay thế, chuyển đổi nó. Ðã có một
phong trào đi về phương Ðông. Khởi xướng ra phong trào này phải nói tới Hội
nghị Triết gia Thế giới năm 1949 tại Honolulu; hội nghị đã bầu Khổng Tử là chủ
tể cho tư tưởng nhân loại và công nhận sự thất bại của văn hoá Tây phương trong
việc mưu cầu hoà bình và hạnh phúc cho con người.
F. Capra, vật lý gia và cũng là tư tưởng gia hàng đầu của Tây
phương, đã lãnh đạo phong trào đi về phương Ðông. Ông đã dành trọn thời gian
còn lại của đời ông cho việc đi thuyết giảng về sự hư hỏng của tư tưởng Tây
phương và cổ vũ cho việc chuyển đổi tư duy từ căn bản qua các sách của ông đã
xuất bản. Cùng với ông có nhiều học giả và khoa học gia đang nghiên cứu Ðông
phương học, mong làm tốt cho nền văn minh đương đại.
Thực vậy, muốn kiếm phương sách giải quyết các vấn nạn của nền
văn minh này thì không còn cách nào ngoài việc đi về phương Ðông. Nhưng Ðông
phương học không dễ học vì đã “được” nhiều học giả Tây phương cho là huyền học,
là một cái gì khó hiểu. Không thể đem luận lý một chiều ra sử dụng để hiểu các nguyên
lý triết lý Ðông phương.
Thật may mắn là các khoa học gia đã kiếm ra được bản chất của sự
vật giống như người Ðông phương thường quan niệm. Ðiều này được diễn tả ở trên,
trong bài này, “Thực tại gồm hai phần, phần tiềm ẩn và phần thể hiện” (Reality is
twofold, consisting of potentials and actualities), tức là sự vật gồm hai phần
âm và dương. Ðông và Tây đã gặp nhau, đã đồng ý về bản thể của sự vật; hay nói
cách khác là Ðông và Tây cùng chung một vũ trụ quan.
Ðạo học hay triết lý Ðông phương lấy luật quân bình Âm Dương làm
căn bản cho mọi lý luận về vũ trụ và nhân sinh. Các hiền giả phân biệt ra chủ
và khách, chỉ có hai yếu tố, và nghiên cứu để yếu tố chủ có thể hoà với yếu tố
khách, hay nói cách khác là làm sao để Âm Dương hoà hợp, tức là làm sao để quân
bình Âm Dương. Vì vậy cái Ðạo của Ðông phương căn bản vẫn là Ðạo Hoà.
Muốn hiểu Ðạo học Ðông phương vì vậy phải hiểu rõ luật quân bình
mà Tây phương đã nhận thức ra được qua khoa tân vật lý.
Ðể hiểu luật quân bình Âm Dương không có sách nào giúp ta cách
hiệu quả bằng Kinh Dịch vì Kinh Dịch chỉ bàn về Âm Dương quân bình và bất quân
bình.
-
Trong Thượng Kinh, sự biến hoá trong trời đất được diễn tả đi từ bất quân bình
về quân bình.
Quẻ Thái (
) diễn tả trạng thái quân
bình của muôn vật trong vũ trụ mà từ đó mọi vật sinh sôi nẩy nở, phát triển. Tiến
trình này xảy ra trong trời đất được gọi là Ðạo Thái Hoà, là Thiên Ðạo, Ðạo
Trời.

- Trong Hạ Kinh, sự biến hoá trong tâm
con người từ trạng thái bất quân bình tới trạng thái quân bình, từ trạng thái
bất trung bất chánh tới trạng thái trung và chánh. Trạng thái này đựơc diễn tả
bằng quẻ Ký Tế
). Tiến trình đi từ bất quân bình
bất trung chánh đi về quân bình và trung chánh tuyệt đối thì gọi là Ðạo Ðại Hoà
hay Nhân Ðạo, Ðạo Người.

Vì vậy, xin được coi quẻ Ký Tế là một quẻ quân bình Âm Dương và
trung chánh tuyệt đối làm mẫu hình căn bản, nguồn lý luận cho Triết lý Ðại Hoà.
Triết lý Ðại Hoà có thể là giải pháp duy nhất cho cuộc khủng
hoảng hiện nay của loài người. Triết lý này đã được người cổ Việt hiểu rõ và đã
được thể hiện rõ nét về lý thuyết cũng như thực hành,về triết lý cũng như trong
các thể chế làng xã Việt Nam.
Triết gia Bertrand Russell nói, “Có ba cái xung đột mà loài
người không có cách gì khắc phục được, đó là mình xung đột với mình, mình với
người và mình với thiên nhiên.”
Hay nói cách khác là có ba cái hoà cần phải đạt được là:
Mình Hoà Với Mình.
Mình Hoà Với Thiên Hạ.
Mình Hoà Với Thiên Nhiên.
Ba cái Hoà này chính là ĐẠI HÒA; Ðại ở đây là Ba vậy.
Đến đây xin được phép giải trình thêm về mẫu hình căn bản của
Triết lý Ðại Hoà là quẻ Ký Tế được diễn đạt dưới đây:
____ ____
Thủy
__________
____ ____
__________
Hoả
____ ____
__________
-
Quẻ Hoả là nội quái, tức là chủ, là mình. Quẻ Thuỷ là ngoại quái, là khách.
-
Hào 2, âm, là tâm mình ứng hợp với hào 5 là dương. Hào 2 (-) hợp với hào 5 (+)
nên tâm mình được hoà với mình; tâm đã an.
-
Hào 1, dương (chủ), ứng hợp với hào 4, âm (khách), như vậy là mình đã hoà được
với người.
-
Hào 3, dương (chủ), ứng hợp với hào 6, âm (khách), là mình hoà được với thiên
nhiên.
Ðể đạt tới đạo Ðại Hoà này, con người phải đầu tiên hoà với
chính mình trước đã. Nếu không hoà được với mình thì làm sao hoà đựơc với người
và thiên nhiên. Ở đời Trần đã thực hiện được cái đại đạo này qua Tam giáo đồng
nguyên. Hay nói đúng hơn là hiền giả đời Trần đã mượn tam giáo để thể hiện cái
đại đạo của mình, đó là Ðại Hoà đạo.
Thực ra nói tam giáo đồng nguyên là chỉ mới nói tới một phần ba
của tam giáo. Phải nói là Tam giáo là một Ðại đao gồm ba phần: đồng nguyên,
đồng quy và đồng lưu:
- Tam Giáo Ðồng Nguyên,
– Tam Giáo Ðồng Quy
- Tam Giáo Ðồng Lưu)
Tam Giáo Ðồng Nguyên vì cùng một gốc nhân bản. Ðiều này đã được
triết gia Trần Thái Tôn phát biểu như sau:
“Sách Nho thuyết việc thi hành đức Nhân sao cho khắp; kinh sách
của Ðạo gia khuyên yêu mọi vật, tôn trọng sự sống; Phật dạy không giết hại
chúng sinh. Chưa sáng tỏ chân lý, người ta lầm tưởng ba giáo lý Phật, Lão,
Khổng khác nhau. Khi đã hiểu đến nơi đến chốn rồi thì người ta thấy cả ba giáo
lý cùng đi tới một trọng tâm mà thôi.”
(Nho điển thi nhân bố đức, Ðạo Kinh ái vật hiếu sinh, Phật duy
giới sát thi từ. Vị minh nhân, vọng phân tam giáo; liễu đắc nhân, đồng ngộ nhất
tâm.)
Tam Giáo Ðồng Quy vì cả ba tôn giáo đều quy về một mục đích là
an cái tâm. Phật chủ trương Tâm Bình; Khổng chủ trương Chánh Tâm, Lão chủ
trương Ðạo, tức quân bình Âm Dương. Cả ba đều nhắm tới việc an cái tâm, bởi lẽ
tâm an là điều kiện cần và đủ của hạnh phúc con người.
Tam Giáo Ðồng Lưu vì người dân Ðại Việt có thể một lúc theo cả
ba tôn giáo Khổng, Phật, Lão hay ít nhất lúc trẻ theo Khổng, già theo Lão và
lúc nào cũng theo Phật.
Bây giờ ta thử đặt vấn đề là tại sao lại không là nhị giáo, tứ
giáo mà lại là tam giáo. Trả lời câu hỏi này thì đồng thời cũng trả lời được
câu hỏi tại sao lại phải theo Ðại Hoà đạo.
Như đã nói ở trên, ta có ba cái xung đột làm cuộc đời ta khốn
khổ là:
Mình xung đột với Mình.
Mình xung đột với Người.
Mình xung đột với Thiên Nhiên.
Phải theo cả ba tôn giáo cùng lúc vì không một tôn giáo nào
trong ba tôn giáo đó có thể giải quyết cả ba xung đột kia, hay nói khác đi phải
có cả ba tôn giáo ấy thì mới thực hiện trọn vẹn được đạo Ðại Hoà.
1. Hoà Với Mình:
Hoà với mình là quan trọng nhất, vì không hoà đựơc với mình thì cũng khó mà hoà
được với người. Không có một đạo nào lại có lý thuyết rốt ráo và có những kỹ
thuật hữu hiệu bằng Phật giáo trong việc thực hiện việc mình hoà với mình. Nho
giáo cũng có lý thuyết là đạt chánh tâm nhưng về phương pháp thực tế để đạt
chánh tâm thì mỗi thầy nói một cách. Thầy Chu Hy thì nói muốn chánh tâm thì
phải cách vật, muốn cách vật thì phải lấy lý trí tới với sự vật, tìm hiểu cặn
kẽ. Thầy Vương Dương Minh phản đối và cho rằng phải trở về tâm mà khảo sát sự
vật thì mới cách vật trí tri được và mới đạt chánh tâm.
Trong khi đó, đạo Phật chỉ ra rằng khi muốn định tâm thì Thiền,
khi đối phó với tham sân hận thì quán vô thường vô ngã, đó là với người thường.
Còn đối với những người học rộng tài cao thì có các kinh: Kinh Bát Nhã, kinh
Kim Cương, kinh Thủ Lăng Nghiêm v.v… Chẳng hạn Nguyễn Du đã đọc kinh Kim Cương
cả trăm lần.
2. Hoà Với Người:
Ðể có thể sống hoà thuận với thiên hạ, không có đạo nào vượt qua được đạo Khổng
vì đạo Khổng là đạo có những lý thuyết và nguyên tắc thực hành rất hiệu quả,
như các nguyên tắc tam cương ngũ thường. Tam cương đề ra nguyên tắc vua đối với
dân, vợ đối với chồng, cha đối với con. Còn Ngũ thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín. Nếu thông suốt được năm điều này thì mình biết cách đối xử hoà nhã với
người.
3. Hoà với Thiên
Nhiên: Không có đạo nào tôn trọng thiên nhiên bằng đạo Lão. Lão tử cho Ðạo là
trên tất cả. Có Ðạo thì khỏi cần Ðức, có Ðức khỏi cần lễ nghĩa.
Ðạo ở đây là đạo quân bình Âm Dương. Khi ở thế quân bình thì
mình sáng ra, việc làm của mình không trái với luật quân bình, tức là hợp với
Ðạo, Ðức, Nhân, Lễ, Nghĩa.
Nói tóm lại, theo đạo Lão thì phải vô vi là không làm gì trái
Ðạo, không làm gì tạo bất quân bình Âm Dương trong thiên nhiên, tức là hoà với
thiên nhiên và với mọi người vậy.
Phần lớn tư tưởng của Lão tử lấy Ðạo Quân Bình làm căn bản.
Trong chương 77, ông nói: “Ðạo Trời như dương cung dư. Cao thì nén xuống, thấp
thì cất lên, bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu.”
Trong chương 2, ông nhìn cái xấu cái đẹp như một người thấu đáo
luật quân bình: “Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, nên cái kia là xấu, đều biết
lành là lành, nên cái kia là không lành. Vậy cho nên có, không cùng sinh ra
nhau. Khó dễ cùng thành ra nhau. Dài ngắn cùng so sánh với nhau. Cao thấp cùng
nghiêng úp nhau.”
Ông nhìn những khác biệt mâu thuẫn trong thiên nhiên đều bổ túc
cho nhau. Sự hiện diện của xấu để người ta nhận ra cái đẹp, cái tốt; có ngắn
thì người ta mới nhận ra được cái dài v.v… Ông cho rằng trong thiên nhiên mọi
thứ đã quân bình với nhau cả rồi, không nên can thiệp vào, làm mất sự quân bình
đã được thiết lập trong trời đất. Chẳng hạn như cây thải ra dưỡng khí (Oxy) cho
sự sống của con người và hút đi thán khí (CO2) để bầu không khí trong lành và
tránh nạn không khí bị nóng lên. Nếu can thiệp vào như chặt hết cây cối đi thì
ta lấy đâu dưỡng khí mà thở. Nếu cứ thải khí CO2 ra nhiều quá khả năng hấp thụ
của cây cối thì không khí sẽ nóng lên v.v…
Ðến đây chúng tôi mới hiểu tại sao một nước bé nhỏ như Ðại Việt
lại có thể ba lần đánh thắng một đế quốc hung hãn hùng mạnh nhất địa cầu thời
bấy giờ. Ðại Việt thắng quân Mông Cổ với trí tuệ và kỹ thuật của riêng mình chứ
không nhờ vả vào ai. Vì Ðại Việt là một nước có một nền văn hoá và văn minh cao
nhất hoàn cầu thời bấy giờ do dân tộc Ðại Việt đã hiểu được cái bí mật của
thuyết Ðại Hoà, đó là quẻ Ký Tế trong Kinh Dịch: hoà với mình, hoà với người và
hoà với thiên nhiên. Nhờ thuyết Ðại Hoà, người dân Ðại Việt thông tuệ, sản sinh
ra một nền văn hoá siêu việt, một nền văn minh vượt trội hơn cả các nước lân
bang, kể cả đế quốc lớn nhất thời đó.
D) KẾT LUẬN
Những nan đề của nhân loại ngày hôm nay chỉ có thể giải quyết
được bằng triết lý Ðại Hoà. Nhân loại, kể cả người Việt Nam chúng ta, đã chia
ra làm nhiều thành phần, nhiều khối, nhiều phe mâu thuẫn xung đột với nhau, làm
sao để chúng ta có thể sống hoà thuận với nhau? Không còn con đường nào ngoài
con đường trở về với cốt lõi của văn hoá, tư tưởng Việt Nam, đó là Ðại Hoà Ðạo,
là triết lý Ðại Hoà. Muốn thực hiện một triết lý đại hoà, thì trứớc tiên phải
có phương cách hoà với chính mình, rồi sẽ hoà được với người và thiên nhiên.
Muốn hoà được với mình thì phải làm một cuộc chuyển đổi tư duy từ căn bản. Muốn
chuyển đổi tư duy thì phải hiểu luật quân bình là thiên lý, là đạo trời mà phải
tuân thủ, chẳng khác nào không muốn gặp tai nạn thì ta phải tuân thủ luật đi
đường khi lái xe vậy.
Thái Đông A
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét