Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2014

Thư viện Việt Cổ

THÂN MẪU TÂM LINH
Kim Định

     Nhân vật sau cùng cần nhắc đến là “Âu Cơ Nghi Mẫu” người đã gặp Bố Lạc trên cánh đồng Tương. Đó chính là hình ảnh của nét song trùng, của hài hòa, của vài ba. Âu Cơ Nghi Mẫu chính là hiện thân của nguyên lý mẹ: đem tình thương cốt nhục ràng buộc mọi người trong nước để tất cả coi nhau như cùng một bọc, gọi nhau bằng những danh xưng trong gia đình: “bà con cô bác”, đem tình yêu thương tương trợ thấm nhuần mọi mối nhân luân, nhờ đó mà tránh được sự đấu tranh từ nền tảng. Nói theo triết là gạt bỏ được mầm mống cho mọi thuyết nhị kháng (dualism) đã làm hư hại biết bao nền đức lý cũng như triết lý, rồi tràn ra xã hội bên có bên không, thế là xui nên bên chủ bên nô, bên thống trị bên bị trị và ngày nay hiện hình một cách thảm khốc vào hai khối tư sản và cộng sản. Trái lại dưới bóng mẹ Âu là tinh thần hài hòa lưỡng hợp, tinh thần công thể tương trợ, coi nhau như thân nhân phát xuất từ cùng một bọc.                Hai chữ đồng bào gây đầy âm vang cụ thể vào xã hội chứ không chỉ là lối nói suông. Thí dụ, trong kinh tế là bình sản, trong nghệ thuật là nét song trùng, trong triết lý là thế lưỡng hợp… khiến cho xã hội không làm bằng tranh đấu bóc lột mà bằng cộng tác tương thân. Đó gọi là tâm linh sử quan, được biểu thị bằng cô Liên trong truyện Trầu Cau. Hai anh em đã biến thể thành cây cau và hòn đá coi như không thể hòa lại, vậy mà nhờ cô Liên biến thành dây trầu không quấn quít lấy cả hai, nên mối tình lại trở thành đỏ thắm. Đỏ thắm chính là màu sắc tâm linh. Cô Liên là bóng dáng nguyên lý mẹ. Bóng dáng đó còn được biểu hiệu dưới nhiều tên khác từ Nữ Oa, Vụ Tiên, Giáng Tiên, Tiên Dung trải qua các Lê Thị, Phan Thị, Trần Thị cho tới Thiên Mụ, Bà Đen, Bà Chúa Xứ tức nguyên lý mẹ vẫn còn chờn vờn khắp nẻo non sông để tiêm sức sống mãnh liệt cho Văn Lang có được tinh thần thống nhất làm bằng yêu nước thương nòi, nên dầu trải qua hàng ngàn năm bắc thuộc vẫn chiến đấu cả trong mặt trận văn hóa lẫn quân sự chính trị để duy trì tinh thần Văn Lang cao cả.                            
Có nhìn chung lịch sử nhân loại ta mới nhận ra sự cố gắng bảo tồn truyền thống Văn Lang quả là có lý do sâu xa, bởi vì Văn Lang là một thành tích lớn lao ít có trong xã hội lòai người; ở các nơi khác hầu hết là thống trị với nô lệ và bất bình đẳng. Đang khi Văn Lang là một công thể mà mọi thành viên vẫn được hưởng tự do và bình đẳng. Đó chính là lý tưởng của biết bao tâm hồn quảng đại yêu thương mà những người đã thiết lập nên các nền đức lý, triết thuyết, tôn giáo, rồi cả các cuộc cách mạng lật đổ chính quyền đều đã thiết tha mong mỏi, cố gắng như vậy, nhưng mãi tới nay mới đạt được một phần nhỏ, thế mà Văn Lang quốc đã thực hiện được một thời gian dài tới ba bốn ngàn năm thì đủ biết tinh thần Văn Lang quốc đáng quý biết bao.                                Làm thế nào mà được như thế? Câu thưa nằm trong chỗ ba vị nói trên đã đặt tay ấn mạch trúng các điểm then chốt làm thăng tiến con người. Hỏi đó là những điểm nào?Các nhà cổ nhân học đã nhận ra hai biến cố làm cho con vượn người trở nên người đích thực, con người khôn sáng (homo sapiens) đứng biệt lập ra khỏi cái khối vượn người đã xuất hiện trước đây nhiều triệu năm, và cứ tiến dần, tiến dần cho đến lúc cuối cùng cách đây lối trăm ngàn năm thì con người khôn sáng mới tách hẳn ra khỏi khối đó. Vậy hai yếu tố kèm theo biến cố quyết liệt này là lao tác và tình nhà.                   
Với hiện tượng thứ nhất là lao tác, con người vượt ra khỏi tình trạng ăn sẵn để đi sang tình trạng ăn làm với rất nhiều hệ quả kéo theo. Ăn sẵn thời hái lượm, săn bắt. Vì thức ăn không có sẵn và nhất là thất thường nên con người phải tiêu quá nhiều năng lực vào việc kiếm ăn, không còn giờ dư dành cho văn hóa tinh thần. Đã vậy lại còn gây ra những cuộc tranh dành cướp đọat: mạnh lấn yếu… Với ăn làm trái lại con người bớt lệ thuộc vào thiên nhiên vì sản xuất được nhiều đồ ăn không những đủ cho việc định cư, khỏi lang thang nay đây mai đó, lại còn dành ra được nhiều thì giờ rảnh rang để có thể phát huy óc sáng tạo, phát minh ra đồ dùng, các phép chăn nuôi, làm nhà, dệt vải… để nâng cao đời sống con người, cũng như phát huy chiều kích mỹ thuật, văn hóa. Đó là con đường đi lên: từ ăn giật cướp đoạt chuyển sang tự làm ra, càng ngày càng tinh xảo, nhờ vậy thức ăn vừa thêm nhiều vừa tinh tế hợp khẩu vị. Một sự biến chuyển rõ rệt từ võ lực đi lên tinh thần.                                                                                             
Điểm hai là tình nhà. Đây là điểm quan trọng làm con người khác thú vật. Nơi thú vật không có tình nhà. Không cả tình mẫu tử nữa. Tuy con mẹ có bảo vệ đòan con nhưng hòan tòan vì sinh lý: gà chăn con đến lúc con tự túc được thì liệu hôn với mẹ: đến gần sẽ bị mổ. Cá chuối chăn con cũng vậy, lớn lên đủ sức tìm của nuôi mà không trốn khỏi mẹ thì bị mẹ nuốt. Con vật không có tình, không thể làm nên được gia đình. Cộng sản chủ trương vô gia đình là điều rất thuận lợi với lý duy vật. Đã đặt nền tảng trên duy vật thì sự trở lại lối sống của lòai súc sinh là lý đương nhiên.                         
Trái lại nơi con người tình người kết thành tình gia tộc rồi lớn lên thành thị tộc, rồi dân tộc tức mối liên hệ sinh lý huyết thống được phát huy thành mối tình nhân loại, vươn lên đến đợt Đại Ngã tâm linh có tính chất bao quát rất hiệu nghiệm nhờ đó đã trở thành nền tảng mới cho sự tổ hợp xã hội. Thay vì xây trên sức mạnh đấu tranh bóc lột thì nay xây trên tình người, trên sự cộng tác tương trợ. Thay vì coi nhau như sài lang theo kiểu ác thú tranh mồi, thì nay coi nhau như ”thân nhân” giúp nhau cùng sống. Đây lại là một bước tiến về tinh thần hơn nữa: từ họ hàng huyết thống đi đến họ hàng thiêng liêng của nhân loại.                  
Trên đây là hai yếu tố mới xuất hiện cùng với hiện tượng người (phénomem humain) gọi là văn hóa. Thời văn hóa này kéo dài cho tới lúc con người bước vào văn minh cách đây lối mười ngàn năm thì dần dần thờ ơ với hai yếu tố trên nên không thiết lập nổi triết lý lao động, hoặc coi nhẹ tình nhà vì vậy xã hội loài người về mặt tinh thần lại lui về thời vượn, tức chỉ có sức mạnh nên nảy sinh đấu tranh giai cấp và bóc lột lẫn nhau. 
Trái lại ta thấy ở Văn Lang vẫn bảo tồn được hai sự kiện trên. Trướt hết là nhờ Lạc Long Quân đã triệt phá những trò quỷ mị huyền hoặc thường đưa con người tới chỗ vong thân mà cụ thể là quên làm ăn, quên tình nhà để hướng lòng lên cõi lý giới mơ mộng. Nhờ vậy vua Hùng thay vì hướng vào việc xây dựng quân đội để gây chiến tranh chiếm nô lệ, cướp phá các bộ lạc khác, thì ở đây lại hướng trọn lực lượng sản xuất vào việc phụng sự con người một cách tích cực cụ thể: bạt núi, húi rừng, xẻ sông làm xuất hiện bà lúa, bà nành, bà dâu, bà đậu… để làm cho đời lên cao, đạt độ phong lưu cũng như dẫn tới tinh thần làm việc đốc kính an vi; thay vì xâm chiếm chiến tranh, thì ở đây là những lễ hội đình đám tưng bừng kéo dài cả hàng tháng.                                                Mẹ Âu thì đem tinh thần ruột thịt nhuần thấm mối liên hệ giữa người với người khiến xã hội thị tộc nguyên thuỷ bước lên được xã hội nông thôn với tinh thần công thể, nghĩa là tài sản quân phân định kỳ mà tình người phát triển thành ngũ luân, với những đức tính cao thượng của nhân nghĩa liêm sỉ làm nội dung cho mối tình huynh đệ phổ biến. Đó là hậu quả của sự việc đặt tay đúng vào những điểm làm cho con người tiếp tục trên thang nhân linh hóa.                                      
Trái lại nếu bị đặt sai căn bản thì sau khi đã bước vào quy chế người khôn sáng một thời con người lộn trở về với thời dã thú xưa như tranh cướp, ăn thịt lẫn nhau, còn xã hội thì tổ hợp theo lối đoàn lũ hóa, tức ràng buộc bằng bạo tàn với luật pháp khắt khe mà bên trong là sự thiếu tình người làm tiêu tan hoặc công bằng hoặc tự do, hoặc luôn cả hai. Vì thế một mặt con người tiếp tục tiến lên các bước văn minh (hết nông nghiệp thì đến kỹ nghệ rồi công nghệ, và đang lăm le bước lên đợt cuối cùng của con người phong lưu), nhưng mặt khác vẫn duy trì cung cách thú vật là cướp đoạt, tranh mồi, nên văn minh thiếu nội dung người hoặc nói gọn thì văn minh hiện nay là một nền văn minh rừng rú.                        
Vì thế Văn Lang quốc theo nghĩa rộng có thể gọi được là một phép lạ vì không đâu có được tình người thâm sâu và bền bỉ đến thế. Người ta quen gọi văn minh Hy Lạp là một phép lạ nhưng đó là một phép lạ khác, vì nó chuyên chú vào vật thể, còn Văn Lang thì chú vào nhân tính, chú vào tình người, vào tinh thần tức cái chi vi tế. Chính bởi thế mà cho tới nay không được các học giả chú ý.  Thế nhưng tình trạng hiện nay của loài người lại đang nghiêng ngửa vì óc khoa học đã vượt quá xa tình người, nên cung cách tranh mồi kiểu dã thú, cũng như lối tổ hợp kiểu đoàn vật càng ngày càng lan xa đến độ đe dọa an ninh loài người, thì tinh thần Văn Lang quốc rất đáng được nghiên cứu một cách thâm sâu hơn cũng như rộng hơn. Quyển Sứ Điệp tiếp theo sẽ nhằm đóng góp vào hướng đó. 


Kinh Hùng Khải Triết

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Việt Nam Phong Tục

QUỐC TÚY QUỐC HỒN XUYÊN QUA TỤC ĂN TẾT
Kim Định

Quốc hồn là cái hồn thiêng của đất nước, cái tinh hoa văn hóa dân tộc, ta có thể gọi bằng tiếng mới là cái triết lý của tiên tổ chúng ta.

Quốc tuý trái lại là cái gì vật chất thường gắn liền với ăn với uống, có tính cách tinh vi, có khảnăng làm cho say, say tuý luý như quen nói về thuốc lào, rượu đế, một số món ăn đặc biệt tinh xảo.

Hai điềm trên nếu để rời thì nói được là đâu cũng có cách nọ hoặc cách kia, nhưng khi đem hai cặp thành ngữ đó ghép vào nhau thì đấy là một nét đặc trưng nghĩa là không đâu có. Nét đặc trưng nói lên hai điều, thứ nhất là đặt đạo vào ngay những truyện thường nhật như ăn uống là điều khác với nhiều nơi thí dụ Tây Âu và Hy Lạp thì họ đặt trên lý giới rất xa cõi người ta: ăn ra ăn, triết ra triết. Họ nói ăn đã rồi mới triết lý sau: prius manducare deinde philosophari. Với ta thì ăn đã là triết. Triết ngay trong việc ăn.

Điểm hai là nói lên tác động con người, chính con người giữ một vai chủ động ngay từ trong việc đạo, việc linh thiêng. Đó là điều đặc biệt của triết lý nhân chủ vốn đề cao tác động con người, đưa lên tới bậc ngang hàng cùng trời đất như bánh dầy chỉ trời chỉ đạo đó là quốc hồn, bánh chưng chi đất là quốc tuý: còn phần việc của con người là ăn. Nếu ta để tâm suy nghĩ sẽ thấy việc của con người cao cả xiết bao: đó là ăn trời ăn đất, hoặc nói theo Kinh Dịch là vui với trời, ăn với đất (lạc hồ thiên, thực hồ địa).

Chính vì nét đặc trưng đó mà tiếng Việt có những cặp danh từ kỳ lạ như ăn học, ăn chơi, ăn nói, ăn làm, ăn hỏi, ăn cưới, ăn lời, nếu không thì ăn đòn v.v… tức là ăn đi với những việc không phải ăn. Vậy thì tiếng ăn ở đây nó như cái khung của đạo lý: thay vì nói phương pháp tôn chỉ của học của chơi thì ta nói ăn học, ăn chơi. Là vì đạo lý nào muốn có thực chất thì phải tiêu hóa, nên sau mỗi cái ăn đều có một đạo lý, thường được biểu lộ bằng một câu truyện và những âm vang như tục ngữ thói tục.

Thí dụ cụ thể là ăn trầu. Ăn trầu là một lối ăn riêng biệt rất công phu, kéo dài gọi là nhai. Nhai thì Mỹ cũng có, Mỹ Việt đều nhai: Mỹ nhai chewing gum, Việt nhai trầu. Nhưng đàng sau cái nhai của Mỹ không còn gì ngoại giả cao su. Ngược lại với miếng trầu thì đàng sau còn lắm điều hay. Điều thứ nhất là có say: có tuý luý, có đỏ mặt và nóng ran người. Điều hay thứ hai là có truyện trầu cau. Đây là truyện hay ở chỗ biểu thị cao sâu của nó, cây cau mọc thẳng lên tượng trời, hòn đá vôi nằm ngang dưới gốc tượng đất, còn người là cô gái trở thành cây leo quấn quýt lấy cả hai cây và đá. Vì đó có bản gọi tên cô là Liên tức đóng vai liên lạc giữa trời cùng đất. Quốc tuý được biểu thị bằng nhai đi nhai lại cho trầu cau hòa hợp vào nhau để sinh ra một chất mới là nước trầu đỏ thắm để chỉ quốc hồn quốc tuý hòa hợp và như vậy rất tiện để chỉ việc hôn phối giữa nam nữ, hầu sinh ra con cái nối dòng, do vậy mà miếng trầu  trở nên đầu câu truyện với vô số phong dao tục ngữ đi kèm:
Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tâm tình (tuý đấy)
Ăn cho nó thỏa sự mình với ta (hồn đấy).
Trầu này trầu quế trầu hồi
Trầu loan trầu phượng trầu tôi trầu mình.
Trầu này trầu tính trầu tình,
Trầu nhân trầu nghĩa trầu mình lấy ta.
Trầu này têm tối hôm qua,
Trầu cha trầu mẹ đem ra cho chàng.
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?
Hay là chê khó chê khăn,
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.

Còn biết bao nhiêu nữa nhưng vậy tạm đủ để thấy sự dị biệt giữa cái nhai của Mỹ và cái nhai của tiền nhân ta. Nhai chewing gum thì chỉ có nhai đàng sau không còn gì; còn nhai trầu thì đàng sau có câu truyện trầu cau đầy ứ ý nghĩa với vô số cái ăn đàng sau: ăn hỏi, ăn cưới, rồi ăn ở, ăn nằm…
Sau ăn trầu thì nói đến ăn Tết ta còn thấy sự dị biệt lớn lao hơn nhiều. Trứơc hết Tây đâu có nói ăn tết, họ nói célebret gì đó, nghĩa là mừng. Thí dụ tết Tây chỉ có một ngày là hết, hôm sau là chấm tròn đi job. Tết ta thì có đến ba ngày, ta quen nói “ba ngày tết”, đã vậy đó chỉ là chính cốt chứ phải kể cả sửa soạn và cái đuôi thì cả hàng tháng. Đến nỗi phong dao có câu:

Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè.


Đấy là cái khác nhau bên ngoài, bây giờ tìm vào đến nội dung ta mới thấy một sự khác biệt sâu xa lạ lùng. Ta thấy tết chính là tiết, tức là tiết nhịp hòa âm thống nhất. Thống nhất chi? Thưa là trời đất người, cả ba phải hòa nhịp.

Vì thế mà tết phải có ba ngày và cả ba đều là căn bản, vì thiếu ba thì làm sao có hòa hợp, có thống nhất. Trời quá cao đất quá thấp, phải có người làm trung gian mới có thái hòa.

Rồi để cho sự thống nhất có nội dung trung thực thì tết phải mừng vào lúc trời hết lạnh, lúc đất nở hoa lá, con người có thể ra đồng trồng gieo. Vậy nên đó phải là mùa Xuân lúc khí trời ấm áp, thảo mộc nảy mầm lá hoa, người có thể đi ra để khởi đầu quá trình gieo gặt. Đó là một cảnh thái hòa được diễn cách cụ thể trong mùa Xuân. Ta quen nói: “Ngày xuân con én đưa thoi” là vậy.

Phải là mùa Xuân én mới đưa thoi được chứ ngày Đông mà rở thoi ra thì teo gấp, còn đâu nữa mà đưa, mà thoi không đưa thì làm gì có hòa hợp. Tết Tây không bao hàm triết nên họ đặt tết vào lúc thịnh đông: lúc trời rét căm căm, đất đầy tuyết, người phải rúc trong nhà. Như vậy là chỉ nghĩ đến Trời mà không kể đến Đất đến Người, nên tết chỉ có một ngày, nếu nói ngặt thì Tây chỉ có một ngày đầu năm mà không có tết. Vì tết là tiết là nhịp mà có nhịp với ai đâu: độc tấu à, chỉ có Trời độc tấu. Đất với Người không tham dự, làm sao mà có truyện tết như ta.

Truyện tết kể rằng vua Hùng Vương thứ ba muốn truyền ngôi cho con, nhưng không truyền cho bất cứ con nào mà phải là con có tài có đức, vậy để tìm ra người đó thì vua đặt ra cuộc thì gia chánh kỳ lạ: hễ con nào làm được món ăn vừa ý vua hơn cả thì sẽ truyền ngôi cho. Các con vua liền bổ đi khắp ngả để tìm của ngon vật lạ người lên rừng, kẻ xuống bể, kẻ đi đông người sang tây đưa về thôi thì đủ thứ: sơn nhung, hải vị, giò lụa, nem công, chả phượng, chả quế, hot dog, hamburger không thiếu thứ gì. Trong khi đó công tử thứ 9 tên là Lang Liêu nhà nghèo không có phương tiện chuyên chở nên chẳng tìm ra được cái gì xa lạ, nên buồn rầu cả đêm trằn trọc mất ngủ. May thay đang lúc bối rối thì có thần hiện đến mách nước rằng khỏi đi đâu xa xôi hãy xuống ngay bếp lấy gạo nếp ra làm một bánh vuông, và một bánh tròn, rồi chồng lên nhau mà dâng vua cha. Lang Liêu liền làm theo đó. Đến ngày thi thì được vua cha chấm nhất với ưu hạng khen rằng ăn không những đã ngon mà ý nghĩa thì hàm súc vô cùng, vì bánh chưng vuông chỉ đất, bánh dầy tròn chỉ trời. Vậy đó là đạo người rồi còn chi, vì người đựơc định nghĩa là “nhân giả kỳ thiên địa chi đức” mà. Thực là không thể sâu xa hơn được nữa. Thế là vua truyền ngôi cho Lang Liêu và cải hiệu là Tiết Liệu nghĩa là biết lo liệu cho cuộc sống hợp với tiết trời cùng đất. Và từ đấy thì gọi ngày đầu Xuân là Tết và cũng từ đấy hễ đến Tết thì tiên tổ ta gói bánh dầy bánh chưng và gọi là bánh vua Tiết Liệu, với ý nghĩa là phải xếp đặt cuộc sống cho hợp với đạo trời đạo đất. Đấy là câu truyện tết.

Còn âm vang của câu truyện là sự thái hòa trước là giữa Trời, Người với Đất sau là giữa người với người.

Về Trời với Đất thì có những nghi lễ nhớ trời đất như múa lân, trời thì có Rồng với ông địa đi kèm…

Còn với người thì kỹ hơn. Với thế hệ đã qua thì có lễ Gia tiên, với những nghi thức tưởng nhớ đến ông bà. Với người đang sống thì thăm hỏi quà cáp, những người họ hàng ở xa cũng cố trở về quê hương ăn tết để gặp lại và thăm hỏi bà con.

Aáy là chưa kể đến thể chế bình sản, xóa bỏ sự phân chia giai cấp giữa kẻ có với người không, giữa chủ với nô, để ai ai cũng là người tự do, và nếu vì kế sinh nhai cả năm vất vả thì nhờ vào “ba ngày tết” mà nghỉ ngơi ít bữa để có dịp ngửa mặt nhìn trời, cúi xuống nhìn đất tức sống an vui trong mấy ngày: tạm xếp sang bên mọi bận rộn, lo âu thường nhật để lòng phơi phới vui Xuân: vì thế ngày Tết không ai dám đòi nợ, hay trách mắng, trái lại ai nấy cố vui tươi mời gọi, chào đón, đi đâu cũng có ăn với những nét mặt hân hoan cười nói làm ta dễ cảm tưởng đó là quang cảnh lân bàng với bồng lai tiên cảnh, vì là lúc người nghèo tới đâu cũng được hưởng cảnh dư dật phong nhiêu tràn ngập của ngon vật lạ.

Đó lẽ ra phải là cuộc sống thường xuyên của con người nghĩa là con người lẽ ra phải đựơc sống thảnh thơi như những con chim, làm ít chơi nhiều, tung tăng với ca xướng và vũ điệu như được ghi tạc trên mặt trồng đồng Ngọc Lữ. Chính đó là lý tưởng của triết lý an vi, một nền triết nhằm hạnh phúc của mọi người như lý tưởng, như là cứu cánh. Và quả thực trong dĩ vãng lý tưởng đã hiện thực được phần nào tuy còn xa mới hoàn bị, nhưng so với những nơi khác thì quả không hổ mặt xưng là nước có văn hiến sống theo lý tưởng tết là hoà hợp giữa Trời, Đất, Người. Tuy vì trình độ lúc xưa chưa có cơ khí, cũng như vì nhiều lý do phức tạp con người chưa đạt đựơc cảnh an vui thịnh vượng như ý, thì ít ra mỗi năm để ra ít ngày và tạo điều kiện để mọi người có thể sống lối sống lý tưởng nọ ít nhất trong ba ngày, rồi sau đó cố kéo dài ra được đến đâu thì đến, bằng các cuộc hội hè, đình đám, chơi xuân…

Đấy là lý do giải nghĩa tại sao tết đã in sâu vào tâm thức người Việt một ấn tượng tươi vui phấn khởi đầy tưng bừng trẻ trung đến nỗi thiếu tết nó làm cho ta cảm thấy mất mát một cái gì quá ư trầm trọng, mà trầm trọng thật, vì nó là dấu mất một nền triết lý ơn ích hơn hết cho con người mà Việt tộc có cái may đã sáng tạo và duy trì được trên bốn ngàn năm. Đang khi các nơi chỉ có triết lý một chiều bất động gây nên các thứ độc quyền, độc chiếm, độc chuyên, đã không giúp cho đời được an vui thì chớ, mà nếu chẳng may nó cướp được chính quyền thì gieo rắc đau thương trầm thống khôn cùng, như dân nước ta hiện đang là nạn nhân cực kỳ khốn đốn. Đó là trái đắng của triết lý xây trên không gian bất động với cái tết chỉ có một ngày, trái ngược hẳn với triết Việt xây trên chữ Thời rất uyển chuyển vì làm bằng tiết, nhịp, hợp hòa, thống nhất dễ giúp gây được nhiều hạnh phúc như nước ta trong hơn bốn ngàn năm qua đã nhiều lần được hưởng.

Đành rằng so với đời sống hiện nay được nâng đỡ do khoa học kỹ thuật: đâu đâu cũng đầy xe hơi nhà lầu với tiện nghi tràn ngập thì đời sống thôn quên ta xưa thấp hơn nhiều lắm. Thế nhưng biết bao người di tản vẫn nuối tiếc cuộc sống bên nhà là vì hạnh phúc con người chỉ lệ thuộc vào tiện nghi có 2 phần 5, còn ba phần nữa ở tại lối xắp đặt, ở tại môi sinh tinh thần, ở tại tâm hồn thảnh thơi: không có tủ lạnh nhưng gà vẫn chạy quanh vườn, cá vẫn lội dưới ao, lúc hứng lên muốn nhậu là chạy ra xùa rãnh bắt ít con tôm, hái thêm mớ rau mớ lá, lôi ra vài xị đế nữa, thế là một cuộc nhậu khởi đầu bất tận, nhiều khi có sáu câu vọng cổ mùi giúp vui hay dăm ba ván cờ tướng! Khỏi lo mất job với đụng xe. Đấy không phải bản ráp của cuộc sống trên “bồng lai tiên cảnh” hay sao? Thế mà không phải chỉ có trong huyền thoại nhưng đã thấp thoáng xuất hiện nhiều lần trong trình sử của nứơc ta.

Đó là công hiệu của một nền triết lý trung thực hơn hết cho con người mà “ba ngày tết” là một bản tóm sinh động. Như vậy quả là đáng cho chúng ta nâng niu gìn giữ như một gia sản thiêng liêng để mà truyền dòng nối dõi. Chúng ta cần phải nghiên cứu học hỏi để duy trì lấy nền văn hóa ơn ích nọ trong các đoàn thể ngừơi Việt hải ngoại, cũng như để nuôi dưỡng cho ngày thêm vững mạnh ý chí phục Việt kiến quốc, mong một ngày nào đó không còn phải kỷ niệm tết, nói về tết nhưng là “ăn tết” với sự tham gia của mọi giác quan trên chính quê nước khi đã tìm lại đựơc tự do hạnh phúc như xưa.




015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...