GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT
TRIẾT LÝ NHÂN BẢN TÂM
LINH
CỦA VĂN HÓA VIỆT &
CHÚNG TA
A. Vũ Trụ Quan
- Vô Cực >
Thái Cực > Lưỡng Nghi > Tứ Tượng > Bát Quái > Vô Cùng
- Nhất Âm Nhất
Dương Chi Vị Đạo
- Đại Đạo Âm
Dương Hòa
- Vũ Trụ Vạn Vật
Nhất Thể >> Ngũ Hành Cơ
- Tam Tài:
Thiên, Địa, Nhân
B. Lý và Huyền Số
- Dịch Lý là
Thiên Lý/ Dịch: Nghịch Lý Chi Số
- Bộ Huyền số
Vài, Ba, Năm >> Nhất, Vài, Ba, Năm, Cửu
- Tham Thiên Lưỡng
Địa (nhi ỷ số)
- Vạn Giáo Nhất
Lý
- Thần Vô Phương
C. Nhân Sinh Quan
- Vũ Trụ Chi Tâm
- Nhân Chủ, Thái
Hòa, Tâm Linh
- Trông Trời
Minh Thời >> Chín Cái Trông
- Biết Đủ Không
Tham
- Không sợ thiếu
chỉ sợ không công bằng
- Tình Lý Tương
Tham << Âm Dương Tương Thôi
- Lòng Nhân
Ái cứu cả Thế Giới
- Tự Do, Dân Chủ,
BÌNH SẢN
- Trí Tuệ, Bản
Lĩnh, DẤN THÂN.
Trên đây là thứ tự các giá trị phổ quát của
Văn Hóa Việt từ tầm vĩ mô Vũ Trụ Quan tới vi mô Nhân Sinh Quan thông qua các
Phép/Nguyên Lý/Quy Luật của Dịch Lý và Lý Số/ Huyền Số, tạo nên bức tranh sinh
động của Văn Hóa Việt, vận động và phát triển trong thế Quân Bình Động của vạn vật
trong Vũ Trụ mênh mông.
A.Vũ Trụ Quan
1.
Vô Cực > Thái Cực > Lưỡng Nghi > Tứ Tượng
> Bát Quái > Vô Cùng
Lời Phát đoan của
Dịch: “Thái cực sinh Lưỡng Nghi (Âm Dương
), Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng ( Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm Thiếu Dương ), Tứ
Tượng sinh Bát quái, ( Kiền , Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ), nhi Biến
hoá vô cùng”.
2.
Cặp đối cực - nguyên lý Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị
Đạo.
Âm Dương được dùng
làm biểu tượng tổng quát cho các cặp đối cực trong Vũ trụ. Khi Âm Dương “tương
thôi“, nghĩa là xô đẩy níu kéo nhau, không bên nào thắng hẳn… giúp luôn đạt tới
trạng thái quân bình động, được gọi là “Đại Đạo Âm Dương hoà”.
Khi các cặp đối cực Giao thoa hay Giao chỉ,
Giao hợp để đạt trạng thái Quân bình động
thì ta có nét Lưỡng nhất hay Song trùng lưỡng hợp. Khi các cặp đối cực đạt thế Quân bình động
thì có tính chất Tiến hoá và Trường tồn
nghĩa là Thái Hòa.
Theo Nho thì Quy
tư và Suy tư là Nghịch lý, hay là cặp đối cực (opposite term), nếu cặp đối cực
có được sự cách biệt thích hợp (3 / 2: Tham Thiên lưỡng Địa nhi ỷ số) thì trở
nên một trong muôn vàn nét Lưỡng nhất, nét Lưỡng nhất ( dual unit ) là “Mạch lạc nội tại, là “Nét Nhất quán“
xuyên suốt nền Văn Hóa Việt.
Đây là lối Sinh
hoạt giúp con Người lập được mối liên hệ Hoà với Trời Đất, tức là mối liên hệ
hàng Dọc, (Cao minh phối Thiên) nhờ vốn liếng quý giá này mà con Người có thể sống
Hoà với nhau, (Bác hậu phối Địa) đây là
mối liên hệ Hàng Ngang. Khi hai mối liên
hệ Dọc Ngang hài hòa thì Vũ Trụ Hòa. (Cosmic rhythm : Tiết nhịp Hòa của Vũ trụ)
Tổ tiên chúng ta
dùng Biểu tượng Bình dân (Chất gia) và
câu văn Bác học (Văn gia) để giúp người
nào cũng có cách dễ tiếp thu Nguồn gốc của Văn Hoá :
- Biểu tượng “ Mẹ Tiên Âu
Cơ: Non Nhân“ được dùng để thay cho câu
“Cao minh phối Thiên” của Văn gia. Mẹ Âu Cơ được ví như chim Tiên phải sống
sao cho bớt Lượng thêm Phẩm cho nhẹ đi, mới bay được Lên Non cao vắng vẻ yên tĩnh mà un đúc Lòng Nhân, Nhân là
Tình Yêu bao la (hay Lòng rộng) u linh
man mác.
- Biểu tượng “Cha Rồng Lạc Long: Nước Trí“ thì được Văn gia
gọi là “Bác hậu phối Địa“. Cha Lạc Long
được ví như Rồng, phải tung lên Không trung làm mưa làm gió và lặn sâu Xuống Biển
biến động của thế giới Hiên tượng để
phát triển Lý Trí cho được Chu tri. (Trí sâu). Lý thì rõ ràng, khúc chiết.
- Biểu tượng “Con Hùng Vương: Hùng Dũng” là kết tinh của Mẹ
Nhân, Cha Trí, nên được Hùng Dũng. Dũng (Nghĩa khí chi dũng) tức là Mạnh phần Hồn,
Hùng là sức mạnh Thể Xác (Huyết khí chi dũng), có thế mới nên con Người Nhân chủ,
có khả năng Tự Chủ, Tự Lực, Tự Cường để làm Chủ Vận hệ mình, Gia đình mình và Đất
Nước mình.
Vì vậy muốn là
con cháu của Vua Hùng thì cũng phải bỏ “Tham, Sân, Si“ để có Lòng rộng hay Nhân đồng thời phải lăn lộn vào Đời
học hỏi không ngừng để có sự hiểu biết viên mãn, gọi là Trí sâu hay Nghĩa,
không có Lòng rộng và Trí sâu thì mất Bản tính con Người, trở nên Vô thần, chỉ
làm tôi đòi cho Ma Quỷ. Tiền Nhân cũng nhắn nhủ: “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức quỷ thần chi hội”, tức Người là nơi
hội tụ Đức Trời Đất, cũng là nơi hội tụ của Ma Quỷ.
3. Tam Tài Thiên Địa Nhân
Thiên Địa Nhân là
cơ chế bình đẳng, hài hòa và đương nhiên ở thế Quân Bình Động của vòng quay Vũ Trụ. Với tầm
nhìn xuyên suốt hàng dọc Thiên Địa Nhân, Triết Lý An Vi cho rằng Trời là chủ, Đất
là chủ thì Con Người cũng là chủ, bởi thế giới này tồn tại và trường tồn không
thể thiếu một trong ba yếu tố trên. Âm/Đất/Mẹ tương thôi với Dương/Cha/Trời
sinh ra Nhân/Người/Gái, Trai.
Tổ Tiên ta đã gửi
gắm êm đẹp Tam Tài trong hình tượng Mẹ/Non/Nhân, Cha/Nước/Trí sinh Con Hùng
Dũng, Đảm Đang (Trai Tài, Gái Đảm).
Nối tiếp cha ông,
Cư sĩ Trần Cao Vân gửi gắm trọn vẹn trong bài thơ thất ngôn bát cú “Vịnh Tam
Tài”, thể hiện Nhân Chủ Tính của Triết Lý Việt:
“Trời Đất sinh Ta có ý không
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ Đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Trời che chở Đất Ta thong thả
Trời Đất Ta đây đủ hóa công”.
Và còn vô số những
biểu tượng Triết Lý Nhân Bản trong đời sống Văn Hóa Việt từ cổ tới kim.
4.
Vũ Trụ Vạn Vật Nhất Thể >> Ngũ Hành Cơ
Vũ Trụ Vạn Vật Nhất
Thể tạo nên cơ cấu Ngũ Hành.
Hỏa/Nam
↑
Mộc/Đông ← Thổ/Trung
Tâm → Kim/Tây
↓
Thủy/Bắc
Hồng Phạm có nhấn mạnh hành Thổ bằng cách thay chữ “Viết“ bằng
chữ “Viên“;
Thủy viết nhuận hạ:
Tính chất của nước là nhuần xuống
Hỏa viết viêm thượng:
Tính chất của Lửa là bốc cháy lên
Thổ viết giá sắc:
Thổ ở trong giá sắc ( Gieo gặt )
Thổ không có việc
thẳng mà chỉ ở trong hai việc của Người ( gieo gặt ) như thế là Thổ không có
làm cũng y như là Thổ không có mùa riêng. Có Xuân, Hạ, Thu, Đông cho 4 Hành kia
mà không có mùa thứ 5 cho Thổ, cũng như Thổ không có Phương Hướng thứ 5. Do đó
mà có một số học giả cho Thổ là phụ thuộc vì không có Việc, không có Mùa, không
có Phương ( Xem Legge S.29 + 230 ), nhưng với Triết Đông đó là chỗ đặc biệt của
Hành Thổ. Chính vì Thổ không có phương nên mới Thần diệu. Vì Thần vô phương
nghĩa là vượt Không Thời gian nên mới được tôn lên bậc Hậu Thổ, đại diện cho
Hoàng Thiên ở chung một cung: Đó là danh dự không hề bao giờ dành cho các Hành
kia. Chính vì Thổ là Hành vô địa, không Phương riêng, không Mùa riêng, nên Thổ
mới có thể che chở mọi Hành và vượt lên mọi Hành để ở vào một bình diện khác hẳn
tức là siêu việt, vô hình : “ Hành vô hành “.
B. Lý
và Huyền Số
Lý và Huyền Số là
công cụ, phương tiện để luận và giải về con người, sự vật, hiện tượng của đời sống.
1 1. Về Lý
Khó mà kể hết, bởi có bao nhiêu sự vật
hiện tượng thì có bấy nhiêu cái lý để lý giải chúng. Có thể bắt đầu từ Kinh Dịch,
Thái Ất Thần Kinh/ Độn Giáp, Tử Vi, Tử Bình, Kỳ Môn Độn Giáp, Bát Tự, Phong Thủy,
Tướng Số, Độn Toán, Bốc Dịch, Tướng Pháp, Cảm xạ - Tâm Linh đến Thông Thiên
v.v.
Điển hình căn bản
nhất vẫn là Kinh Dịch, người Việt cổ gọi là Kinh Diệc, rồi Kinh Việt, sau có
Kinh Dịch họ Hùng.
Kinh Dịch có thể
nói là một trong những Kinh Vô Tự còn gọi là Sách Ước Trời ban cho những cư dân
đầu tiên sống trên vùng đồng bằng những con sông lớn như sông Cái (S. Hồng), đến
Nam Dương Tử và lên mãi tới lưu vực sông Hoàng Hà của Đại chủng Viêm Việt, còn
gọi là Viêm Chủng hay Nhật Chủng, gồm những tộc người Việt cổ đầu tiên như Tam
Miêu, Cửu Lê, Tứ Di.
5 giai đoạn của Kinh Dịch:
Giai đoạn I . Dịch thiên nhiên hay Ðạo Dịch
của Trời Ðất.
Tức hồn Dịch gặp
được trong các Huyền thoại đầy chất Lưỡng Hợp như truyện Ông Cồ Bà Cộc, Núi
Sông, Nước Lửa, Tiên Rồng . . .
Giai đoạn II. Dịch của Phục Hy
Thành bởi nét Đứt
( - - ) và nét Liền (― ) ghép thành 8 quẻ đơn, mỗi quẻ có 3 nét. Ðó là bộ số Vài,
Ba, Năm .
Giai đoạn III . Dịch của Ông Ðại Vũ đúc Cửu đỉnh
Tức là thêm vào
vòng Trong năm số Sinh bốn số Thành nữa là chín, cũng gọi là Cửu Lạc ( số Cửu/Chín
của dân Lạc ) .
Giai đoạn IV. Dịch của Văn Vương
Bắt đầu có Văn tự,
đó là những lời giải nghĩa 64 quẻ gọi là Hào từ hay Thoán/Soán từ.
Giai đoạn V. Dịch của Khổng Tử có thêm Thập Dực.
Nổi nhất trong đó
là Hệ từ đại truyện có giá trị triết lý siêu hình. Xưa nay người ta chỉ biết có giai đoạn IV và
hầu hết nó đã trở thành sách bói toán và ma thuật. Giai đoạn V được chú ý chút
ít. Chí như 3 giai đoạn trước thì hầu như không có ai nói gì tới và đấy là chỗ
cắt nghĩa sự sa đọa của Nho là vì Ðạo là cái gì linh thiêng siêu việt không thể
dùng ngôn từ hữu hạn mà nói được, “nói được thì không phải Ðạo thường hằng nữa
”, mà chỉ là Ðạo phù phiếm thuộc vòng ngoài.
Vì thế “Tri giả bất ngôn” người biết Ðạo không
nói mà chỉ dùng một hai dấu hiệu, vài ba con số để chỉ thị rồi yên lặng. Ðó là
lý do tại sao các đạo lý Phương Ðông quý chữ Trống rỗng, Hư tâm, Vô thể. Vì thế
Kinh Dịch khởi đầu chỉ có số vài và ba, đến sau mới thêm lời vào. Vậy mà các thế
hệ sau lại chú ý nhiều về lời, thành ra chỉ chuyên ngọn mà bỏ gốc. Nay muốn tìm
lại Ðạo Uyên Nguyên thì phải học về bộ huyền số trong Kinh Dịch.
2 2. Về Số
Bộ Huyền Số Vài, Ba, Năm, Chín
Trong hệ thống thập phân thì những con số 2, 3, 5, 9 là quan
trọng, những số đó là số nguyên tố, tức là số học trọn vẹn không thể chia cắt.
Trong khi Tổ Tiên Việt đã dùng bộ Huyền số Vài, Ba, Năm, Chín vì nó mang theo
trong mình ý nghĩa nền tảng của nền Văn Hóa, biểu tượng cho Thiên Lý hay Dịch
Lý.
Vì chưa có Văn tự nên Tổ Tiên Đại Chủng Việt đã cất dấu
bộ số Huyền niệm trong nhiều lãnh vực để khỏi bị mai một, nhất là chống lại âm
mưu tiêu diệt Văn Hóa của Tàu .
-
Vài
nói Hai, biểu hiện qua Ngọc Long Toại là cặp Trống Mái, được chôn dấu
trong đất mà tia sáng chiếu thẳng lên Trời, các nhà Vọng khí
đều biết hòn Ngọc Long Toại còn ở phương Nam. Đây là lời nhắn gửi kín cho cháu con cháu về nguồn gốc Văn Hóa
Dân tộc, chỉ có con cháu mới hiểu, còn người ngoài khó nhận ra. ( Xin xem truyện
Việt Tỉnh )
-
Vài
Ba, nét Lưỡng Nhất
Nữ Oa cầm cái Quy
(┼: vẽ Vòng Tròn, compa), Phục Hy cầm cái Củ
(┘: vẽ hình vuông, êke), khi chết Nữ Oa biến thành chim Tinh vệ thuộc
nòi Tiên, Còn Phục Hy biến thành Thanh tinh tức Rồng Xanh, hai bên giao chỉ nơi
đuôi, hay giao thoa thành nét Lưỡng Nhất. Đây là hình ảnh của hình vuông ngoại
tiếp, mà Cha ông ta đã ví von là “Mẹ Tròn
con Vuông”.
Tuy hai nhân vật
Văn Hóa này có trong Cổ sử Tàu, là do họ
đem vào sử của họ, nhưng hai nhân vật này lại thuộc nòi Tiên Rồng của Chủng Việt.
Không những Nữ Oa, Phục Hy, mà cả Thần Nông, Hữu Sào, Nghiêu, Thuấn cũng như
Bàn Cổ đều là những nhân vật Văn Hóa thuộc
Nông Nghiệp, do các nhà sử Tàu mới đem vào sử của họ, nhân vật càng xưa lại được
đem vào sau hết. Nhân vật xưa nhất là Bàn cổ được Từ Chỉnh đem vào thời nhà
Hán.
Hòn sỏi ở Ngưỡng
Thiều, hai hòn để nhẵn, ba hòn để thô. Cây Phủ Việt: bên trên là hai Giao Long
(Rồng) “cài hoa kết hoa” nghĩa là giao
thoa nhau, bên dưới có hình ba người đầu mang lông Chim (hoá trang thành Tiên),
hay ba con nai chà (nai Lộc, Lộc Tục). Đây cũng là nơi tộc Việt cất dấu
bộ số huyền niệm, hai-ba, vì là Cơ cấu của nền Văn Hóa Đông Nam (Mộc số ba, Hỏa
số hai). Cái Phủ Việt mang Danh tính là
Việt và Thể tính là hai-ba. Cái Tước hai
quai, ba chân.
-
Ba
là bộ ba cái Chạc (đồ tùy táng giống cái ly uống nước ), bao giờ cũng tìm được
bộ ba.
Con số ba quan trọng
đến độ định tính sự vật, nên biến thể nhiều vật như cóc và chim tìm được ở Ðông
Sơn có miệng nhọn, tức ba góc, gà ba chân, cóc cũng ba chân. Để lên chức cậu
ông trời ( phải rụng một chân ).
-
Năm là Ngũ Hành, Ngũ Sắc, Ngũ Luân, Ngũ Thường.
Ðó là bộ số chỉ
trỏ sự Quân bình Vũ Trụ : Trời ba , Ðất hai. Vẽ ra là hình Thập tự nhai ┼ gồm
nét Ngang là hai Ðất, cộng với nét Dọc là ba Trời thành ngũ hành là số năm. Hoặc
cùng vẽ là hình tức là Tròn trên Vuông hay Tròn bao lấy Vuông. Xã hội theo quy chế Bình sản không có chế độ
nô lệ. Hỏi ai là chủ bộ số hai – ba này trước thì đó là Việt.
-
Cửu/Chín,
là Cửu Cung, Cửu Đỉnh, Cửu Trùng… là số thành từ các số sinh bốn và năm hay ba
tầng của Ba là Chín/Cửu. Cửu cũng là số Trời.
C. Nhân
Sinh Quan
1. Nhân Chủ, Thái Hòa, Tâm Linh
Trên thế giới chỉ
có Việt Nam có nền Văn Hóa sóng đôi thống nhất của Chất gia và Văn gia. Chất
gia có kho tàng Huyền Thoại, Ca dao, Tục ngữ, Lời du… Cả hai đều đồng quy vào “Gốc Nhân Nghĩa“. Văn gia có Kinh Điển với Tứ
Thư, Lục Kinh, (có phần khác với Hán Nho của Tàu),
Vì sống theo Nghề
Nông, Tổ Tiên chúng ta luôn quan chiêm Thời tiết / Trông Trời mà Minh Thời để
việc gieo trồng được kết quả. Tổ tiên chúng ta chưa tiến tới nếp sống “đi trên
đại lộ huy hoàng“ như các Dân tộc Văn
minh, mà chỉ “đi trên những con đường truyền thống“, bắt đầu làm những việc từ
Gần tới Xa, từ Nhỏ tới To… mà từ từ vươn lên từ Lượng tới Phẩm giúp cho cuộc sống
siêu việt (Dân tộc chọn tên Nước/Nác/Lác/Lạc là Tộc Việt ở phương Nam còn gọi Lạc
Việt) để làm người Nhân Chủ, biết sống tự Chủ, tự Lực, tự Cường hầu làm Chủ Vận
hệ mình, Gia đình mình và Đất Nước mình.
Nhờ thế, mà con dân trong nước có đủ Tư cách và Khả năng biết Yêu thương
Đùm bọc lấy nhau, Đoàn kết với nhau để Dân tộc có đủ Nội lực mà Dựng Nước và Giữ
Nước. Tạo nên những giá trị nhân bản mẫu mực và vững bền. Đó là:
Nhân Chủ, Thái
Hòa, Tâm Linh
Nhân chủ như đã
phân tích trong cơ cấu Tam Tài, Nhân Chủ tức người là chủ nhân của chính mình,
gia đình mình, Đất Nước mình và chủ nhân của Thế Giới.
Ngày nay, nhân chủ
tính hay con người nhân chủ bị triệt tiêu bởi cơ chế vô hình mà chính chúng ta
không vượt qua được. Câu hỏi đặt ra, Việt Nam có trí tuệ không? Tại sao không.
Có bản lĩnh không? Tại sao không. Nhưng cái quan trọng nhất là quyết định Dấn
Thân. Chúng ta chưa đủ can đảm để quyết định dấn thân, nên chúng ta cùng nhau,
bám nhau để chìm xuống đáy.
Trí khôn thì có đủ,
song dũng cảm chưa tới thì phải nhờ Trời vậy thôi (!?)
Thái Hòa là không gian để vạn vật hòa với nhau,
tương tác mà phát triển trường tồn.
Tâm Linh là là hệ
quả của những việc làm từ nhân tâm, an nhiên tự tại, đã dâng hiến cho đời, trở
thành cao quý, đáng trân trọng, vượt không thời gian và trở thành giá trị linh
thiêng, là tấm gương cho muôn đời. Tâm Linh cũng là Nguồn Sống và Nguồn Sáng của
cuộc sống chúng ta.
Từ những giá trị
nhân bản nền tảng, sản sinh ra hàng loạt những giá trị tiếp nối với những ý
nghĩa thực tiễn đã đi sâu vào tiềm thức con người trong đời sống nông nghiệp từ
buổi sơ khai.
Biệt tài của người
Phương Đông là “Trông Trời Minh Thời”. Thời đây là thời gian, thời thế, thời vận
và thời tiết mang tính tổng hòa của triết lý nhân sinh hoàn hảo, áp dụng vào thực
tế đời sống và đã đạt ngưỡng huyền đồng. Đơn cử một cách minh thời trong chín
cái Trông của người Việt: “Trông trời
trông đất trông mây/ Trông mưa trông gió, trông ngày trông đêm/ Trông cho chân
cứng đá mềm/ Trời yên biển lặng mới yên tâm lòng”.
Chín cái Trông thể hiện một Vũ Trụ Quan
ứng dụng vào đời sống nông nghiệp lúa nước, để rồi từ đó cái kinh nghiệm sống
này truyền cho muôn thế hệ, một khi con người vẫn có nhu cầu tới lúa. Đây cũng
là nội dung giáo dục tính kiên nhẫn, cần cù và kính trọng sức lao động đáng quý
của nhà nông – để có một hạt lúa phải mất đến Chín Cái Trông như vậy.
Khi thấu hiểu quy luật xoay vần của Tạo
Hóa, người Việt biết kiềm chế những yếu tố thái quá của nếp nghĩ ích kỷ, tiểu
tiết, manh mún dẫn đến tranh giành, xung đột, mất đoàn kết trong triết lý “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng” và
cũng an ủi nhau một cách tế vi “Không ai
giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Đây là một nguyên tắc kiềm chế đối trọng
để giữ công bằng xã hội, mang chuẩn mực nhân văn cao cả, tránh được cái nạn “Kẻ ăn
không hết, người lần chẳng ra” (hệt như bức tranh đang diễn).
Một cái
nhìn Minh Triết đã nâng cao Giá Trị Nhân Bản Tâm Linh Việt vượt không gian và
thời gian, trở thành Giá Trị Phổ Quát Nhân Loại, đó là “Biết đủ
không tham”. Lẽ đương nhiên khi loài người biết đủ không tham thì thế giới
sẽ an bình dài lâu.
Xin thưa, trước
cái lòng tham vô đáy của con người, vốn dĩ bản năng. Từ xa xưa, trong các phép ứng
xử, người Việt đã biết toại lòng nhau bằng cách ăn ở phải người phải ta, rồi
tình lý tương tham, để lòng nhân ái cứu cả thiên hạ. Người Việt cũng bảo nhau từ
tốn, nhã nhặn và yên tâm trong triết lý “Cho là Nhận” một cách an nhiên tự tại.
Đức tính này đã trở thành kinh điển trong lời dạy của Bụt để tránh tham, sân,
si.
Tất cả những giá
trị Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan được cụ thể hóa trong chính sách cai trị Đất
Nước bằng cơ chế Bình Sản.
Đây là vấn đề cũ
rất cũ, cũ nhất trong những nền văn hoá xưa nhất của thế giới. Nhưng “Mới là cái Cũ chưa biết”, nên nó rất hợp
với thời đại khoa học tân tiến ngày nay, vì gồm cả Khoa học Tự nhiên, (nhất là hệ
thống Nhị phân: Binary system), Phép Lập trình và Khoa học Tân Nhân Văn như Cơ
cấu luận, Tâm lý miền sâu, Khảo cổ học, Di truyền học. ..
Triết gia Kim Định
đã khám phá ra vai trò quan trọng của “Nét Lưỡng Nhất” của
Dịch lý trong Nho, nét này được tìm thấy trong Cơ cấu của Văn Hóa Đông - Tây,
giúp chúng ta tiến tới một cuộc Tổng hợp Đông - Tây - Kim - Cổ. Nét Lưỡng nhất
(dual unit) là nền tảng của nền Văn Hóa Thái Hòa Việt Tộc, giúp con Người sống
Hòa với nhau.
Nét Lưỡng nhất cũng là nền tảng của triết lý An Vi là triết
lý Hoà giải của Triết gia Kim Định.
Nét Lưỡng Nhất là
các cặp Đối cực: Nhỏ / To, Gần / Xa, Đơn Giản / Phức tạp, Tầm thường / Phi Thường,
Không gian / Thời gian, Vũ / Trụ, Tán / Tụ
Tinh vi / Vĩ đại. . . đều được kết
hợp hài hòa làm thành nét Lưỡng Nhất, nên trong Nhất có Đa và Trong Đa có Nhất.
Nét Lưỡng nhất rất
quan trọng, vì nếu không có các cặp đối cực như Gái / Trai, Cái / Đực, Mái / Trống,
Nhụy Cái / Nhụy Đực kết hợp hài hòa với nhau mà “Sinh Sinh Hóa Hóa“ thì Quả Đất
này chỉ là một bãi Sa mạc mênh mông.
Trong lãnh vực Văn
Hóa Dân tộc, ngoài triết gia Kim Định, ít nhà nghiên cứu Văn Hóa đi tới tận nền
Cơ cấu. Việt Nho có :
1. Cơ cấu là bộ Huyền số: Vài - Ba, Năm
2. Nội dung : Thái Hoà, Nhân chủ, Tâm linh ( tức Vũ trụ quan
và Nhân sinh quan )
3. Đạt quan : Phong
thái An Vi siêu thoát.
CHÚNG TA
LIÊN HỆ TỚI NGÀY NAY. Với chiều dài Lịch Sử Văn Hóa Vạn Năm, tự hào Văn Hiến Chi Bang, Ngàn Năm Văn Vật và Văn Minh Trống Đồng, mỗi người cần làm gì cho Đất Nước đang lúc lâm
nguy.
Nho đã mất tinh thần, Nho đã hủ lậu càng thêm hủ lậu, Dân Việt
Nam đã ngủ say lại càng ngủ mê hơn! Triết
gia Kim Định đã ví von : "Hồn mất trước, Nước mất sau". Hồn đây là Hồn Nhân
Nghĩa của Dân Tộc cũng là Tình Nghĩa Đồng Bào. Nước đây là quyền làm Chủ của
Giang Sơn Gấm Vóc, được xây dựng từ thuở Vua Hùng. Nói tóm lại sự sa đọa về Văn Hóa làm cho con
Người mất hết Tư cách và Khả năng, không thể hành xử Hòa với nhau, mà phá tan mọi
sự!
Ngày nay, muốn thể
hiện Nhân quyền thì mỗi người phải có Tự do căn bản, biết nhận những dị biệt của
nhau mà cùng nhau chung Lòng, chung Trí và Góp sức Cứu Dân và Dựng Nước theo Tinh
Thần của Hiến Pháp.
Việc nâng cao Dân
Trí, chấn hưng Dân Khí là trọng trách của các vị Lãnh đạo Tinh thần, các vị Trí
thức, các nhà làm Văn Hóa Giáo Dục cũng như các vị làm Truyền Thông, đây là
thành phần đầu tàu của dân tộc. Ngày nay các trang mạng, các bloggers đóng một
vai trò quan trọng, nhưng các bloggers phải đồng thuận vào một Hướng chung của
Dân Tộc mới có tác dụng tích cực.
Cỗ máy đầu tàu Dân Tộc này không chuyển động,
thì các toa tàu cứ nằm ụ với nhau. Các nhà Truyền Thông, các trang mạng không
những truyền tải thông tin (Information) để mở rộng Kiến thức quần chúng (Khả
năng), mà còn giúp phổ biến Tinh Thần của Tôn giáo và nhất là Văn Hóa chung của
Dân Tộc (Formation) để un đúc Lòng Nhân (Tư cách) cho mọi người dân.
Loan truyền Tin tức
về Tình yêu thương và Lý công chính là sứ mạng cao cả, giá trị này chung cho cả
Dân Tộc, nên Vô tư không thiên vị.
Một Dân tộc có
con Dân Tâm rộng, Trí sâu thì mới Kết Đoàn được, Kết Đoàn trong cách biết chấp
nhận những Dị biệt của nhau hợp với tinh thần Nhân Ái và Lý Công Chính để cùng
nhau Cứu Dân và Dựng Nước.!
Lê An Vi (tổng hợp từ Việt Nho và Triết lý An Vi)