Xin
thắp nén Tâm Hương, dâng Hoa thơm ngát !
Lời dẫn
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791) là một Thầy thuốc của Nước ta, được nhân dân và giới y học tôn
vinh là Nhà Tư Tưởng, Nhà Văn Hóa Lớn và Đại Danh Y.
Ngài sinh vào thời Hậu Lê, niên hiệu Bảo Thái
thứ năm, ngày 12 tháng 11 năm Giáp Thìn (1724) giờ Dần, mất về thời Tây Sơn,
niên hiệu Quang Trung thứ tư (1791), năm Tân Hợi ngày Rằm tháng Giêng, thọ 67
tuổi.
Gia phả Họ
Lê Hữu ở Liêu Xá có ghi: … Người anh của
Ngài là người con thứ 7 trong 12 người con của Cụ Lê Hữu Mưu, tên là Lê Hữu Tán
sinh năm Canh Tý (1720), tháng 2, ngày 14, giờ Tý. Lê Hữu Trác là con thứ 11,
tính theo con trai là con thứ 7, nên tục gọi là Chiêu Bảy. (Chúng tôi cho
rằng, vì lầm lẫn giữa người con thứ 7 với con trai thứ 7 cho nên mới viết năm
sinh của Lê Hữu Trác là 1720).
Lê Hữu Tán (1720-1786), húy Tựu, hiệu
Thạch Trai, đậu nho sinh. Làm Lễ Bộ Tư Vụ, rồi làm Tri Phủ Anh Đô. Sinh
năm Canh Tý, mất năm Bính Ngọ, thọ 67 tuổi, húy 12 tháng 2. Vợ là Nguyễn Thị
Báo, sinh 1 con là Lê Hữu Thiệu. (Lê Hữu
Dự Đời thứ 15, viết năm Duy Tân III, tháng 6 năm 1909. Bản chữ Nho & Quốc
ngữ Latin).
Trong suốt gần bốn mươi năm làm nghề y,
Hải Thượng Lãn Ông đã đem hết tâm trí của mình với sứ mệnh cứu nhân độ thế, trị
bệnh cứu người vì sức khỏe và hạnh phúc của nhân dân.
Cũng với tinh thần đó, Ngài nhận rõ ý thức
trách nhiệm với tương lai của nghề y Nước Nhà. Xây dựng nền móng, cơ sở truyền
y Đạo, đồng thời sưu tập, tổng hợp, hệ thống và viết sách lưu truyền kiến thức
và kinh nghiệm cho các thế hệ thầy thuốc và nền y dược cổ truyền tương lai.
Trên nền tảng Dịch lý, những vấn đề cơ bản
mang tính nền tảng nghề y như Y đức, Y thuật và Y lý được đúc kết, Ngài đã cho
ra đời bộ sách “Hải Thượng Y Tông Tâm
Lĩnh” một pho Bách khoa toàn thư về Y Dược học cổ truyền dân tộc, một công
trình được biên soạn suốt cuộc đời với ý thức xây dựng một nền Đông Y Việt Nam
bằng phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo, phản biện và tiếp thu có chọn lọc để
phù hợp với con người và hoàn cảnh đất nước.
Nhờ đâu mà Hải Thượng Lãn Ông đạt được
những thành tựu lớn lao như vậy. Câu hỏi được trả lời từ một số nhà nghiên cứu
với những góc độ và lăng kính khác nhau, nhưng chưa phác họa thấu đáo chiều sâu
minh triết, triết lý nhân bản tâm linh trên tinh thần Văn Hóa thái hòa uyên
nguyên và vi diệu của dân tộc Việt từ cội nguồn. Đó là nền Văn Hóa Nông Nghiệp
lúa nước của Đại Chủng Viêm Việt, Việt Thường, Bách Việt và Văn Hóa Hòa Bình
được khởi nguyên ở Thái bình Dương, rồi di chuyển lên miền Trung Nguyên nước
Tàu, trải rộng từ đồng bằng sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử, cách nay khoảng
một vạn hai ngàn năm.
Nền văn hóa Việt cổ này, chúng
tôi gọi là kho báu chứa Minh Triết được
kết tinh qua hơn vạn năm của Việt tộc, từ những Sơ nguyên tượng và Tiềm thức
cộng thông của Nhân loại, là chất liệu nền móng tạo nên Tòa Tháp Văn Hóa Việt
Nam.
Tinh thần văn hóa thái hòa huyền diệu này
nó âm thầm lưu trường trong tâm thức của dân tộc, nó ngấm sâu vào huyết mạch
mỗi chúng ta rất an nhiên tự tại. Hơn thế nữa, nó được nung nấu và thăng hoa
trong tâm hồn, trí tuệ và hành động của mỗi kẻ sĩ, đặc biệt trong những kẻ sĩ
dũng hoạt và bản lĩnh quyết tâm gìn giữ Hồn thiêng Sông Núi và Hào khí dân tộc.
Điều đó lý giải tại sao, một dân tộc nhỏ bé nhưng vẫn đủ tâm lực và trí lực
đương đầu với những siêu cường để trường tồn suốt hơn một vạn năm nay. (1)
A.
Thân thế
Cách đây 300 năm, trên mảnh
đất Xứ Đông địa linh nhân kiệt đã sinh ra cho Dòng họ, cho Quê hương một Người
con, cho Dân tộc một Nhà tư tưởng, một Nhà Văn Hóa lớn và một Đại Danh Y - Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Cổ Liêu Hương,
xã Liêu Xá, phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương, nay là làng Văn Xá, xã Liêu Xá,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nơi sinh ra Hải Thượng Lãn Ông, tọa lạc trên đất
hình quả bầu. Theo ghi chép của Cụ Lê Hữu Hành tức Tràng Thành, Đời thứ 17,
trong cuốn “Gia Phả Họ Lê” năm Kỷ Hợi
1959, có dẫn:
“Vào đời Hậu Lê, Tả Ao Tiên Sinh là một thầy địa lý có tiếng, đi qua Cổ
Liêu Hương thấy phong thủy đẹp, nào dòng Hồ Lô giang điền uốn quanh, nào gò đống
ẩn hiện vây lấy dải đất hình quả bầu … và kết một câu: “Cổ Liêu cái bầu thiên kim nan cầu” tức vùng đất cái bầu Cổ Liêu
ngàn vàng khôn kiếm”.
Xung quanh Cổ Liêu Hương là
những cánh đồng lúa xanh bát ngát và cũng là vựa lúa của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Xứ Đông, vùng đất địa linh, gắn bó với
cuộc đời và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất nước như Thầy giáo Chu Văn An (1292-1370), Tư Đồ Trần Nguyên Đán (1325-1390),
Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330-1385), Danh Thần Nguyễn Trãi (1380-1442), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm (1491-1585),
Diên Hà Bảng Nhãn Lê Quý Đôn (1726-1784)…
Hưng
Yên, trung tâm đồng bằng châu thổ Sông Cái, đắc địa với ý nghĩa vừa Hưng Thịnh vừa Yên Bình được ghi danh vào Quốc sử - Thứ nhất Kinh Kỳ, Thứ nhì Phố
Hiến.
Cụ Khởi Tổ dòng họ Lê Hữu, các cụ hay gọi
là cụ Thủy Tổ dòng họ Lê Hữu gốc Liêu Xá (vì cụ về Liêu Xá sinh sống và phát
triển), trong Gia phả ghi:
”Lê Quý Công tên chữ Phúc Tiên,
là Giám sinh Quốc Tử Giám thời Hồng Đức không ghi năm sinh, năm mất. Xét sổ
Tiên Hiền xã ta, đầu chép quan Hiến Sát Sứ, hiệu Nham Khê là ông Tiên Sinh họ
Vương; Quan Tham chính, hiệu Mậu Hoành là ông Tiên Sinh họ Nguyễn; Sinh Đồ Đạo
An, Tiên Sinh họ Đỗ; Sinh Đồ hiệu Mai Giang là ông Tiên Sinh họ Đỗ; Quan Giám
Sinh, hiệu Phúc Tiên là Tiên Sinh họ Lê;
cách 22 tên, ông Sinh Đồ hiệu Chính Đạo là Tiên Sinh họ Lê; lại cách 1 tên, ông
Sinh Đồ hiệu Chính Tiến (Tín) là Tiên Sinh họ Lê… ” (Thời Hồng Đức
1460-1497)”
Lãn Ông
xuất thân trong gia đình dòng dõi trâm anh và truyền thống khoa bảng. Lần lượt
từ ông nội, đỗ Hoàng giáp, bác, cha, chú, anh và em đều đỗ Tiến sĩ và đều được
phong các tước Hầu, Công, Bá và chức sắc quan trọng trong các Triều vua Lê,
chúa Trịnh. Tấm bảng vàng ghi rõ trên câu đối nhà thờ Cụ Quận Công Lê Hữu Kiều:
“Lịch Triều phong tặng Hầu, Công, Bá
Kế thế đăng khoa Phụ, Tử, Tôn ”
[ Các Triều đại phong tặng Hầu Tước, Công Tước, Bá
Tước / Các thế hệ Cha, Con, Cháu nối tiếp nhau đỗ đạt Đại khoa].
Ngài là con của Tướng Công Tiến sĩ Lê Hữu
Mưu (1685-1739), hiệu Phác Trai và bà Bùi Thị Thưởng (1685 Ất Sửu), là Trác
Thất (vợ kế đầu) - Phong Ấm Thận Nhân, là con gái viên Quan Đô đốc Đặng Phùng
Hầu, Phi Phúc Tham Đốc - Bùi Tướng Quân, quê ở Đông Thành, Nghệ An. Thân sinh
của Ngài từng đỗ Đệ Tam Giáp Tiến sĩ, làm Thị Lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, Tư
nghiệp Quốc Tử Giám, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, nhập Kinh Diên. Mất ở Chu
Thước môn (Cửa Đỏ) Kinh thành, được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi
1739).
I. Trau dồi Văn nghiệp
Lớn lên từ
nếp gia phong, ảnh hưởng sâu sắc nền giáo dục Nho Giáo. Và chính cái nền giáo
dục chính thống từ tinh thần văn hóa dân tộc nguyên bản ấy đã vun đắp nên nhân
cách cậu bé Chiêu Bảy sau là chàng thư sinh Thuần Chẩn với những tư chất tài
năng vượt trội để nuôi chí lớn.
Chàng thư sinh Thuần Chẩn với đức tính ham
học, miệt mài chuyên sâu Dịch lý, Tứ Thư, Ngũ Kinh, thiên văn, địa lý, phong
thủy, độn số, văn chương, quân cơ, võ bị, tu luyện thể chất và tinh thần để
hoàn thiện các chuẩn mực giáo dục nhân cách kẻ sĩ đương thời với Bát Môn - Nho, Y, Lý, Số, Cầm, Kỳ, Thi, Họa.
Những năm bốn mươi đến nửa cuối của thế
kỷ XVIII, nước Đại Việt trong bối cảnh có
nhiều biến động lớn, vua Lê ở thời mạt, Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất
nước lâm vào nội chiến loạn lạc.
Trong cuốn Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã cực tả cái hình ảnh “Hỗn loạn Canh Thân, Tân Dậu (1740-1741),
khắp một vùng rộng lớn, người chết vạ vất đầy đường, người đói phải đi bóc vỏ
cây, bắt chuột đồng mà ăn, có khi ăn thịt lẫn nhau. Số phận của nhiều hạng
người bị đảo lộn, ngay cả những bà góa, tiền của chất như núi cũng chịu ôm tiền
mà chết …”
Đó là câu chuyện những năm chàng trai
Thuần Chẩn chưa đầy hai mươi tuổi.
Cũng
vào thời gian đó, chàng thư sinh họ Lê còn được chứng kiến trong những biến cố
đặc biệt nổi trội, đó là các phong trào khởi nghĩa của nông dân từ Bắc chí Nam.
Chỉ tính trong vòng mười năm, suốt từ Nghệ An đến Hải Dương, đã có ngót hai
mươi thủ lĩnh nông dân liên tiếp nổi dậy.
Đây là thời kỳ bùng phát tâm lý “Lòng người ước ao loạn lạc”(?). Thời đại mà số phận của những ông
chúa thần quyền nghiêng thiên hạ, bỗng dưng bị tung lên, hất xuống trong tay
đám kiêu binh chẳng khác trò đùa. Còn nhân dân thì không cam tâm ngồi chờ chết,
quyết vùng lên đánh cược với số phận, ra đâu thì ra. (2)
Đây là một dấu ấn bi kịch lịch sử khó quên
thời Trung Đại Việt Nam.
II. Rèn luyện Võ công
Chàng thư sinh Thuần Chẩn lại nghe tiếng
vọng: “Binh lửa khắp nơi, con trai thời
loạn há chịu ngồi mãi trong thư phòng sao???”. (Tựa Y Tông tâm lĩnh)
Chàng thư sinh liền gác văn học võ, theo
học Binh Thư Võ Bị suốt hai năm, các
môn Thiên-Nhân, Âm-Dương thuyết áp dụng vào binh thư, luyện võ nghệ, bài binh
bố trận đều thông suốt. Từng là môn đệ của Võ Sư họ Vũ ở làng Đặng Xá. Ngay sau
đó, tòng quân gia nhập quân đội Triều đình thời Lê Trịnh. Ngài đã từng bầy binh
bố trận, đánh đâu thắng đó, giành chiến công lớn, được cấp trên ghi nhận và tỏ ý muốn thăng quan và ban thưởng. Nhưng Ngài
đã từ chối khéo vì đã nhận ra chân tướng của cuộc chiến huynh đệ tương tàn vô
nghĩa. Binh lính cũng là nhân dân đều thiệt mạng để vua chúa hưởng lợi.
B. Sự nghiệp
I. Khởi đoan Y Đạo
Ngẫm lại lời tự thuật: “Tôi vốn là
con nhà dòng dõi trâm anh, thuở nhỏ thường chăm chỉ sách đèn, những muốn làm
nên sự nghiệp lớn…” (Thượng Kinh Ký Sự).
Vậy sự nghiệp lớn là gì khi cố gắng chăm
chỉ đèn sách để thi đậu rồi làm quan trong một thực trạng xã hội rối ren đang ở
bờ vực của suy tàn thì không phù hợp với tâm chí. “… tôi chạy nay đây mai đó, không thể làm người cao đạo trong đời loạn,
học thói giàu có trong cái năm nghèo đói được.”
(Tựa Y tông tâm lĩnh).
Thật là một nan đề lớn của cuộc đời.
Ở đây ta nhớ lại giai thoại “Cuộc gặp gỡ giữa hai nhà bác học”.
Lê Hữu Trác và Lê Quý Đôn cùng dự thi
Hương ở Sơn Nam Hạ năm Quý Hợi 1743. Kỳ thi
trong bốn ngày bắt đầu từ mùng 8 đến 28 tháng 8.
Đầu đề bài văn sách như sau:
“Cai trị thiên hạ
nên có phương pháp: chăm sóc đời sống cho dân, cẩn thận về các chính thể, kén
chọn tướng có tài, nghiêm túc việc dùng quân. Đều là những việc trọng yếu của
việc cai trị đó”.
Quyển thi của
Lê Hữu Trác được nộp lên. Các quan trường xem ai nấy đều khen ngợi, nêu tinh
thần rất xác đáng, lời bàn thấu đáo, rõ ràng. Nhưng nếu vị giám khảo nào tinh ý cũng đều nhận thấy ẩn hiện một nỗi
niềm đau xót, chán chường trước thời cuộc hiện tại trong bài thi. Cuối cùng Lê Hữu Trác chỉ trúng Tam Trường, Lê Quý Đôn đỗ Giải Nguyên. (3)
Có nhiều bình luận về sự kiện này trong
bước ngoặt cuộc đời Lãn Ông, đa số cho rằng, vì chán cảnh thế sự rối ren nên
Ngài bẻ tên, cởi giáp đi về ở ẩn, âu cũng phù hợp với cái tâm lý tránh bon chen
của kẻ sĩ “Thời trị làm quan, thời loạn ở
ẩn”(?).
Nhưng sự thực không phải vậy, một mặt vì
nuối tiếc công lao đèn sách, thế sự rối ren, chí lớn không đạt, mặt khác Lãn
Ông lúc đó gặp phải sự cố gia đình khi có tin người anh trai Lê Hữu Đề mất sớm,
để lại ba đứa con thơ và mẹ già đã bảy tuần ở chốn quê Hương Sơn. Lãn Ông liền bẻ tên cởi giáp trở về quê chịu tang
anh, phụ dưỡng mẹ già và đàn cháu nhỏ.
Ngài nuối tiếc: ”Tuy đã mải miết lo toan ngược xuôi, việc mài gươm tuốt kiếm, đọc sách,
khí hồng nghê muôn trượng khó bề thực hiện, khi ấy tôi có bài thơ ngẫu cảm: “ Thập niên ma nhất kiếm
Phong nhận chính quang mang
Sát khí xung ngưu đẩu
Uy nghiêm động tuyết sương
Nhập Tần kỳ bất khả
Quy Hán diệc vị hoàng
Hải hồ không phiêu đãng
Tráng chí thành đại cuồng.
Dịch:
Mười năm mài lưỡi kiếm
Mũi nhọn tỏa hào quang
Sát khí xông Ngưu Đẩu
Oai hùng động tuyết sương
Vào Tần đã chẳng được
Về Hán cũng chưa màng
Biển hồ trôi dạt mãi
Chí lớn thành cuồng ngông.” Lãn Ông tiếp dẫn:
“Ngờ đâu trăm điều ràng buộc, tâm lực ngày một hao mòn, bị bệnh nặng mất
vài năm. Sau đi tìm được thầy Trần Độc ở núi Thành để nhờ chữa bệnh (thầy Trần
ở làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, tinh thông kinh sử nhưng thi không đậu,
sau về ở ẩn làm thuốc rất thạo). Độ
hơn một năm, có một hôm nhân lúc rỗi rãi tôi ngồi mở đọc sách Cẩm Nang Phùng
Thị, những chỗ sâu sắc về dịch lý âm dương trong sách thuốc đều thấu suốt cả. Thầy Trần thấy tôi có
năng khiếu bèn muốn dốc hết cả kiến thức
của thầy cho tôi. Khi ấy tôi chưa quyết
tâm học, nhưng trong khi bàn luận về những chân lý bí ẩn cũng có những điều
hiểu biết thấu đáo. Vừa khi ấy, Hải tướng
quân đang vây quân địch ở vùng Bào Giang. Bè bạn tòng quân nhiều. Có
người đề bạt tôi, rồi tướng quân cho đem lễ vật tới triệu mời, nhân đó tôi mới
yết kiến ở cửa quân. Tướng quân bí mật
bàn giao cho tôi đem đem quân dạt biển, quặt phía sau lưng địch từ phía Cao
Châu xông ra, đánh úp viện quân của địch. Ngài lại nhủ rằng, việc bái tướng
phong hầu chính là ở chuyến này.
Tôi thầm nghĩ, trường đời danh lợi đã gửi cho nước cuốn mây trôi từ lâu rồi, liền
cố ý từ chối vì còn mẹ già không thể đi xa được.” (Tựa Y Tông tâm
lĩnh)
Thế là y nghiệp bắt đầu từ đây. Ngài về
Hương Sơn, làm nhà dưới rừng, quyết chí học nghề y. Tìm tòi sách vở, miệt mài
ngày đêm, vô cùng khó khăn vì không có thầy hay đồng nghiệp để hỏi han, trao
đổi, duy chỉ có cách tự vấn và tự đáp qua thực tiễn.
Đến lúc cần nâng cao, đã từng lên Kinh tìm
thầy nhưng không có duyên để gặp thầy giỏi, sách hay rồi ngậm ngùi trở về chốn
quê.
Về lại Hương Sơn, Ngài lấy biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông,
Lãn Ông nghĩa là Ông Lười không sống theo lối “Khảng khái tùng Vương dị“
mà là Ông Siêng theo lối “Thung
dung tựu Nghĩa nan”, (có nghĩa ghét bỏ lối dễ dãi khảng khái phục tùng
nhà vua, mà chăm lo việc ung dung làm tròn đại nghĩa) nên ông già Lười xứ Hải Thượng không màng danh lợi, nhưng để
vừa dày công nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, vừa tận tâm chữa bệnh cho mọi
người, sau mười năm, tiếng tăm đã nổi tiếng khắp vùng Hoan Châu.
Năm Bính Tý 1756, Lãn Ông lên Kinh Đô
Thăng Long để tìm thầy cao minh và tinh thông nghề thuốc mong muốn học hỏi nâng
cao tay nghề và trình độ y lý, nhưng duyên không thành. Nhân cơ hội gặp lại
Diên Hà Thừa Chỉ Lê Quý Đôn sau mười ba năm cách biệt, hai tư tưởng lớn đều thành danh vui mừng khôn xiết, tâm đắc chuyện trò,
xướng họa thơ ca, trà dư tửu hậu … Một thành danh nơi quan trường, một ở
chốn núi rừng thâm sâu cùng cốc, cũng nổi danh như một đại y sư, tiếng vang
vọng tới triều đình. Hai quan điểm sống trái ngược nhưng vẫn đạt đỉnh thành tựu
trong cuộc đời.
Giây
phút chia tay nhau, Hàn lâm viện Thừa Chỉ Tiên Sinh than vãn :
“Giữa thời buổi người ta xô chen giẫm đạp lên nhau mà
chết chốn trường thi, thế mà bác Thuần Chẩn một người tài cao, học rộng lại
không màng gì với công danh, phú quý để trở thành lão già lười đất Hải Thượng,
tinh thông y lý, chuyên tâm trị bệnh cứu người thì quả là một sự lạ lùng!” (4)
Đây là dấu ấn đáng nhớ trong lịch sử Việt Nam về
tình bạn tri âm, tri kỷ quý hiếm giữa một Đại Danh Y và một Danh Thần Bác học.
Hai tư tưởng, hai bản lĩnh, hai trí tuệ và hai con đường khác nhau, nhưng cùng
đến một đích nhân bản và nhân văn - Chân, Thiện, Mỹ.
Điều đó chứng tỏ
Lãn Ông đã không tìm nơi nương thân ở ẩn, ngược lại cố tránh xa Cửu trùng để yên thân an hành chính Đạo.
Lãn Ông không xuất thế, tức từ bỏ đời thường, không nhập thế, tức vào quan
trường để màng công danh, mà Ngài đã vượt lên cả hai hành động xuất và nhập để
an hành xử thế. Bởi bản chất Đạo Việt là xử thế. An vi chính là an hành, là hành động an nhiên
tự tại, thái hòa, hành động pháp tự nhiên để thành tựu, trái với cưỡng hành ở
những cộng đồng cá lớn nuốt cá bé và lợi hành ở những cộng đồng nặng về tư lợi,
ích kỷ.
II. Dịch Lý
Lãn Ông sinh ra, lớn lên và được học hành
trên nền tảng giáo dục Nho giáo truyền thống với một tri thức cơ bản và toàn
diện. Một trong những chìa khóa quan trọng nhất để tiếp cận và khám phá thế giới tự nhiên và xã hội đó là Dịch lý, Âm Dương
Ngũ Hành cũng gọi là Thiên lý. Trong lời tiểu dẫn cuốn “Y gia quan miện”, Ngài dẫn lời di huấn của các bậc hiền triết xưa:
“Học Kinh Dịch đã rồi mới có thể nói tới
việc làm thuốc”, làm nghề y mà không tinh thông Dịch lý thì chớ có theo mà
uổng công vô ích. Bởi Dịch lý là Đạo Trời, Đất, Người, không hiểu nó thì khác
nào tìm chim đáy biển, tìm cá trên trời. Lãn Ông hướng dẫn cách học Kinh Dịch
như thế nào để nắm được gốc rễ và bản chất của môn học.
Ngài tiếp: “Nhưng
nói Kinh Dịch không phải là học các hào, các quẻ hay thoán/soán từ của Kinh
Dịch mà chỉ cần nắm được quy luật biến hóa của Âm Dương, sinh khắc của Ngũ hành
tựa như vòng xoáy chôn ốc không đầu, không cuối, Động Tĩnh đều chung một lẽ duy
nhất bởi, trong Trời Đất, vạn vật từ các loại sinh con hay đẻ trứng, hình hóa
hay khí hóa, côn trùng hay thảo mộc loài nào cũng đều bẩm thụ được tinh túy của
Ngũ hành rồi mới có sự sinh trưởng. Huống chi con Người là loài khôn hơn vạn
vật, hấp thụ được toàn bộ tinh túy Âm Dương, đầy đủ phát dục của Ngũ hành… mà
không tinh thông Dịch lý và Âm Dương Ngũ Hành thì làm sao mà hành nghề y, chữa
bệnh cứu người.” (Tiểu dẫn Y Gia
Quan Miện)
Cho nên, Lãn
Ông đưa mục Âm Dương Ngũ Hành lên đầu sách rồi lần lượt đến các bộ vị tạng,
phủ, kinh lạc, mạch yếu … để mở đầu cho việc bước vào nghề y.
Từ nhãn
quan vũ trụ động, Lãn Ông đã chiếm lĩnh chìa khóa Dịch lý để tiến xa hơn, đi
sâu nghiên cứu các triết thuyết cổ nhân mà ngày nay gọi là Đạo học Phương Đông
cơ bản như: thuyết Ngũ Hành Âm Dương, Minh Triết-Triết lý Nhân bản, Đạo Nguyên
Nho, Phật Pháp (Thiền), Y lý, Thiên văn, Độn số, Địa lý, Văn chương, Thơ phú,
Binh pháp, quân cơ … làm cơ sở vững bước vào thực tiễn nghề y.
Cổ nhân phương
Đông ta có câu “Ngắm trời mà minh thời” rồi “Trên thông thiên văn, dưới
tường địa lý, giữa hiểu nhân tình”, mới mong thành tựu (5), là kinh nghiệm được lưu truyền từ văn
hóa vạn năm để muôn thế hệ biết bảo nhau mà trau dồi kiến thức. Đây là một
trong những tinh thần của môn Vận Khí,
Tam Tài Bí Chí, Vận Khí Tầm Nguyên kết hợp với Dịch lý để Lãn Ông viết thành cuốn “Vận khí bí điển”.
Nắm bắt lời
dạy của tiền nhân, Lãn Ông tập hợp được kiến thức xưa và thuật lại nguyên văn,
sau mới có lời bình xét ở đoạn kết. Một tinh thần công minh trong học thuật và
học tập đáng ghi nhận và noi theo.
Một trong
những biệt tài của Lãn Ông là cách tìm huyệt đất và long mạch trong thuật phong
thủy, làm các nhà phong thủy ngày nay ngả mũ thán phục. Tìm hiểu Lãn Ông, chúng ta thấy cách bài trí
nhà cửa, sân vườn trong khu Vườn đào nơi Lãn Ông và gia đình sinh sống. Ta thấy
Lãn ông bố trí một trật tự phong thủy hài hòa để sống khỏe và hành nghề, ngoài
khu ở, tiếp khách, chữa bệnh, lầu Tỵ huyên (nơi yên tĩnh), nhà Di chân (nơi vui
thú tự nhiên) còn có Đình nghênh phong để đón gió, vọng khí, có hồ bán nguyệt
và hòn non bộ, nuôi chim để nghe hót,
bên hồ cắm một cây sào và buộc diều để nhìn hướng gió, nghe sáo diều để biết
lực gió.
Thử xem Lãn Ông tìm huyệt đất và long mạch
thế nào. Lãn Ông bắt đầu bấm độn, xem ngày giờ, quan sát thời tiết và vọng gió.
Đúng giờ và cho thả diều, diều bay và rơi chỗ nào thì đó chính là cái mình cần
tìm. Đây là một môn học rất khó bởi tính độc đáo và chuyên biệt, nó kết hợp cả
khoa học thực nghiệm và tâm linh. Thực ra, tâm linh cũng chẳng khó hiểu, nhưng đòi hỏi phải
có một trực giác nhạy bén và sinh động, sử dụng giác quan thứ sáu để nhận biết
cái tượng, cái tướng hay cái hồn của sự vật, hiện tượng, sau đó dùng các dụng
cụ, lý thuyết kể trên để hành sự, sau cùng là kiểm chứng kết quả. Thuật này,
Lãn Ông tuân thủ và áp dụng đúng nguyên lý ”Tại
Thiên thành Tượng, tại Địa thành Hình” của Dịch Lý. Việc này không thấy có
“Âm vận khí án” (?).
III. Mạch sống ngầm Dân
tộc
Đến nay nhiều người vẫn cứ tin Nho giáo là
do Tàu truyền dạy cho Tổ tiên ta, nhưng qua
sự khai quật của Triết gia Kim Định (1915-1997) thì ngược lại.
Khoảng 40.000
năm trước, khí hậu phía bắc được cải thiện. Người Việt cổ đi lên chinh phục đất
Trung Hoa, từ lưu vực sông Dương Tử tới lưu vực Hoàng Hà. Từ hơn 7000 – 5000
năm TCN, Đại chủng Viêm Việt đã là chủ nhân nông nghiệp trồng lúa với Tam Hoàng
hay Tam Vương - Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông. Năm 2879 TCN, Nhà Nước đầu tiên
của Viêm Việt ra đời là Xích Quỷ ở nam Sông Dương Tử.
Năm 2679 Hiên Viên thủ lĩnh tộc Thiểu Điển từ phương Bắc
xâm chiếm Viêm Việt. Trong cuộc xâm lăng này, người Du mục hòa huyết với người
Việt bản địa sinh ra giống con lai mới, gọi là Hoa Hạ hay Hoa Di. Sau này người
Trung Quốc phong cho Hiên Viên là Hoàng Đế đầu tiên của Trung Hoa (thuộc Đế Kỷ
với Ngũ Đế).
Nho giáo được
thai nghén từ nền Văn Hóa Hoà Bình, qua Thao thiết về Vũ Hóa và Hóa Long, tới
thời Tam Hoàng, rồi Nguyên Nho của Khổng Tử, mà Nguyên Nho lại do Đức Khổng “Tổ thuật từ nền Văn hoá phương Nam của Đại chủng Việt.”
Nền tảng
của Nho giáo là Dịch lý, mà Biểu tượng
là “Tiên Rồng gặp nhau trên cánh Đồng
Tương“ nét Lưỡng nhất này xuyên suốt
nền Văn Hóa Việt .
Trong các cuộc xâm chiếm Việt Nam, khi nào người
Tàu cũng tịch thu sách vở, thu gom trống đồng, bắt hết nhân tài, nên Tổ tiên
Việt, một mặt đã đem tinh thần Nho vào Văn chương truyền khẩu như Ca dao, Tục
ngữ, cùng các Truyền kỳ để giúp cho người bình dân Chất gia trau dồi Nhân Nghĩa; mặt khác về phương diện Nho gia gọi
là Văn gia thì Tổ tiên chúng ta cũng
đã cất dấu nền tảng Nho trong Huyền thoại Tiên Rồng, trong Linh cổ Trống Đồng Đông Sơn, Hoàng Hạ, người
Tàu tuy chiếm được Văn hoá nhưng chỉ hớt được cái ngọn 64 quẻ
Dịch phần nhiều chỉ dùng để bốc phệ (bói
toán), nhâm cầm độn toán, mà không mò ra được triết lý Nhân sinh trong Nho, đó
là cái tinh túy của Nho. Nhìn qua vật biểu của Tàu và Việt thì rõ, trong khi
vật biểu của Việt là Tiên Rồng tức là Âm Dương, là nền tảng của Dịch, còn vật
biểu của Tàu thời Hiên Viên là chim Cú, đời nhà Thương là Bạch mã là phương
tiện di chuyển của Du mục, rồi Đến đời
Nhà Hán mới nhận Rồng, Rồng là Đực rựa,“
Độc Dương bất sinh “ .
Từ nền tảng đó mà hai nền Văn hoá Việt Tàu khác nhau :
bên Việt thì “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo
vô đạo“, còn Hán Nho của Tàu thì “Dĩ
Cường lăng Nhược“.
Đây là sự phân biệt nền tảng, nên khi đánh chiếm, người
Tàu tịch thu sách vở bắt cống nhân tài để huỷ diệt Văn Hoá Việt, nhưng mọi âm mưu tiêu diệt Văn Hoá của Tàu đều thất
bại, dù không có sách vở, nhưng mạch
sống dân tộc đã được kết tinh trong văn
chương truyền khẩu như ca dao, tục ngữ, các truyền kỳ…, mạch sống Nhân
Nghĩa bình dân này cứ ngầm cuộn chảy trong huyết quản dân Việt, do đó mà hơn
bốn ngàn năm Tàu không bao giờ khuất phục nổi.
Hải Thượng Lãn Ông là một Văn gia, nhưng lại sống với Bình dân nơi
thôn dã, nên hai dòng Văn Hóa Văn gia và
Chất gia kết tụ nơi Ngài, nên Ngài trở
thành con Người Nhân chủ ( Hùng Vương )
là Tinh hoa của Trời Đất, của Tiên Rồng. (6)
Con người là
chủ thể đồng thời là đối tượng của các quan hệ tự nhiên và xã hội.
Nhân sinh quan của Đạo Việt biểu hiện trong con người và
nhân cách Lãn Ông.
Con người và Nhân cách Lãn Ông là tổng hòa
các nét đẹp thiên nhiên, dân tộc và Văn Hóa Thái Hòa Việt Nam, với những nét đặc trưng :
Nhân Chủ, Thái Hòa, Tâm Linh, những đặc tính này xem ra luôn bám sát suốt cuộc đời
và sự nghiệp của Ngài.
Nền Văn Hóa Thái Hòa này đặt trên
nền tảng Âm Dương hoà, cũng là nền tảng của Y lý, từ Âm Dương phát triển qua Tứ
Tượng, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư, Cửu Trù,
Hồng Phạm. Đồ hình và số độ Ngũ hành được dùng như Biểu tượng để diễn tả lò Tạo
hóa/Tạo hóa lư hay bộ máy Huyền cơ để khám phá ra Thiên lý của Vũ trụ hòa.
Ngoài Đồ hình và Số độ của Ngũ hành, đồ Hình Lạc
Thư cũng diễn tả sự tạo Thiên lập Địa chẳng khác nào Thời - Không - Liên của Einstein, chỉ khác nhau ở chỗ bên Lạc Thư
thì dùng cặp đối cực Lẻ/Chẵn, còn
Einstein thì dùng cặp đối cực Thời gian/Không gian.
A.
Cơ cấu Văn Hóa Đông Nam
I. Dịch: Nghịch số chi lý
Nam
Hỏa 2
│ │
Mộc ― Thổ ― Kim Đông 3 ― 5 ― 4 Tây
│
│
Thủy
1
Bắc
|
|
Đồ hình & Độ số Ngũ Hành
Để hiểu Dịch Lý chúng ta phải vận dung đến
Đồ hình Ngũ Hành. Ngũ hành có 4 hành
xung quanh, ghép thành hai cặp đối cực :
*Cặp đối cực hàng Dọc Thuỷ Hỏa, tượng trưng cho Nước Lửa. Nước được gán cho là nguồn gốc
của Vạn vật (Thuỷ : vạn vật chi nguyên) là nguồn sống, Hỏa được xem là
nguồn sáng. Hai hành đều là nguồn Năng lượng/Vật chất .
*Cặp đối cực
hàng Ngang Mộc Kim tượng trưng cho sinh vật và khoáng chất.
Do
tương tác với nhau mà các cặp đối cực tạo nên Vạn vật, cho nên khung Ngũ hành
có thể xem như lò Tạo hoá hay Tạo hoá lư, tức là thế giới Hiện tượng, thế giới
Hữu (4 hành xung quanh). Các cặp đối cực
đạt tỷ lệ quân bình động theo tỷ lệ 3/2 : Đông/Nam (Tham Thiên lưỡng Địa
nhi ỷ số). Đó là cơ cấu của nền Văn Hoá Thái Hoà Đông Nam
của Đại Chủng Việt.
*Còn Hành Thổ ở giữa đóng vai trò Dung hóa giúp cho các cặp đối cực hoà hợp
mà biến hoá khi đạt trạng thái quân bình động, Thổ tượng trưng cho Thế giới Vô.
(Hành Thổ ở giữa, xem sau). Người Tàu
không bàn tới những thứ nền tảng này.
Lấy một
ví dụ, đun nước bằng nồi đất hay nồi kim loại để uống, để thấy cặp đối cực
tương khắc Thủy Hỏa, nhưng thông qua trung gian Thổ hay Kim mà đạt hiệu quả
bình thường. Mặt khác, khi các cặp đối cực tương khắc trực tiếp giao nhau, có
hai trường hợp xảy ra, một là xảy ra xung lực ở trạng thái nổ, vỡ tung hay tan
rã, hai là hòa với nhau, tức“Âm Dương
tương thôi“ để đạt trạng thái “Âm
Dương hòa” mà Biến hoá.
Đây là sự vận
động tự nhiên của vạn vật trong vũ trụ, luôn luôn tồn tại theo quy luật hỗ căn
tức nương tựa vào nhau, tiêu trưởng lẫn nhau rồi hòa với nhau để đạt thế Quân bình động. Cho nên, có
đồng hóa và dị hóa, có ức chế và hưng phấn thì mới phát sinh và phát
triển. Trong y học
truyền thống chúng ta thấy có những sự tương tác thường xuyên của cơ thể con
người, thời tiết và các vị thuốc như: tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương
vũ.
Các Thiên thể trong Không gian nhờ sự quân bình giữa sức Ly Tâm và Quy Tâm, mà
di chuyển không ngừng trong Không gian. Trong Vũ trụ nhìn đâu chúng ta cũng
thấy sự biến hoá bất biến của các cặp đối cực.
II. Thái
hòa
Thái Hòa là sự giao hòa của các cặp đối cực
của vạn vật tồn tại trong Vũ trụ , các cặp đối cực như Âm-Dương,
Khôn-Càn, Cái-Đực, Lẻ-Chẵn, Tụ-Tán, Tĩnh- Động, Tình-Lý, Yêu-Ghét… Các cặp đối
cực như Âm Dương là Nghịch số, Dịch lý là
Lý của “Âm Dương hoà“, Đó là Nhất lý, có “Nhất lý thông“ , thì “Vạn lý
minh“.
Theo quy luật “Tham Thiên Lưỡng Địa nhi ỷ số“ (hai-ba/ba-hai), là độ chênh lệch
giữa đối cực ít nhất, nên có thể xô đẩy níu kéo nhau để tạo nên thế quân bình động, nhờ thế mà Tiến hoá và
Trường tồn, tạo nên cảnh Thái Hòa.
Tỷ
lệ cân bằng là vài ba (2 Đất 3 Trời hay 3 Tình 2 Lý ) hay Tham thiên
lưỡng Địa (3 Trời 2 đất, 2, 3 là con số co dãn tuỳ từng trường hợp, không phải là con số Toán học, bởi
vài ba khác 2, 3 ).
Ví dụ
như Big Bang (centrifugal) gây ra sự Dãn nở, tức là sức Ly tâm cần được cân bằng với sức hấp dẫn vũ trụ, tức
là sức Quy tâm (universal attraction: centripetal), hai lực đó có đạt trạng
thái quân bình động thì các thiên thể được treo lơ lửng trên không và di chuyển
theo hướng vô cùng vô tận.
Số 2 được mang ý nghĩa Thái Hòa, Nho đã dùng biểu
đồ Thái cực viên đồ, (biểu tượng Âm Dương trong hình tròn). Khi các cặp đối cực
đạt thế Quân bình động thì Âm Dương hoà, nghĩa là Thái hòa.
Thái hòa, giản dị là biểu hiện của đạo xử
thế An Vi - Nhân Hoà qua Tình Lý hài
hòa, khi đạt nhịp sống Thiên sinh, Địa dưỡng, Nhân hoà thì có Thái Hòa.
Lãn Ông đã sống an bần lạc đạo, ứng xử như
Đạo Lạc/Đạo Nước/Đạo Nác của Tổ Tiên Lạc Việt. Sống và ứng xử sao cho
Nhu – Cương được kết hợp như Nước thì đã đạt chân lý rồi.
Hãy xem
phong cách Lãn Ông có phải là Lạc dân /dân nước xuất thân từ quê hương lúa
nước? Có phải Lãn Ông thường uống nước mưa, tắm nước sông, bắt cua cá trên
ruộng lúa nước, để rồi uyển chuyển, mềm
mại như nước, lãng mạn một chút thì ướt át như nước.
Hễ cần thì mạnh mẽ như hồng
thuỷ, cuốn
trôi mọi rác rưởi, bình thường thì cuộc đời an nhiên tự tại như gió heo may
thoảng trên Trời trong, hay dòng nước lững lờ bên suối vắng. Người Lạc Dân an
nhiên là vậy !
III. Nhân
chủ
Nhân
Chủ là hệ quả của cặp đối cực Thiên/Địa kết thành, Thiên: 1 (Lẻ), Địa: 2 (Chẵn)
, Nhân : 3 (1+2 = 3). Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân, Tài Nhân cũng ngang hàng và
bình đẳng với hai tài Thiên, Địa, bởi con người cũng là một Tiểu Vũ Trụ.
Bài
vịnh Tam tài của Chi sĩ Trần Cao Vân
cho chúng ta hiểu rõ về Tam Tài :