02004
PHÁT HIỆN DI VẬT VĂN HÓA LƯƠNG CHỬ
TẠI VIỆT NAM
Hà
Văn Thùy
Năm 2013, UNESCO công bố
về Di chỉ khảo cổ Lương Chử như sau:
“Khu
khảo cổ Liangzhu là một địa điểm khảo cổ toàn diện đại diện cho nền văn minh
Trung Quốc về nông nghiệp lúa gạo thời tiền sử giữa năm 3300 B.C. và 2300 B.C.
Nằm trong một vùng đồng bằng của mạng lưới sông ở chân phía đông của núi Tianmu
phía bắc của vùng đồi núi ven biển phía đông nam Trung Quốc, nó có diện tích
908,89 ha tại huyện Yuhang, Hàng Châu của tỉnh Chiết Giang và bao gồm khu khảo
cổ, di tích văn hóa được khai quật và môi trường đất ngập nước; trong khi đó,
vùng đệm bao gồm 10.256,45 ha xung quanh khu vực Liangzhu được đề cử bao gồm
năm khu di sản là Yao Sơn, Đường Sơn, Xun Sơn, Huiguanshan và Yaojiadun có giá
trị hỗ trợ tiềm năng cho tài sản. Đây là một trong những địa điểm quan trọng nhất
của Thời đại đồ đá mới ở vùng hạ lưu của sông Dương Tử.
Thành
phố cổ Liangzhu nằm trong một môi trường đất ngập nước ở vùng đồng bằng của mạng
lưới sông giữa núi Daxiong và núi Dazhe của dãy núi Tianmu. Thành phố cổ có một
mặt bằng hình chữ nhật với các góc tròn, và rộng 1.500-1.700 mét từ đông sang
tây và dài 1.800-1.900 mét từ bắc xuống nam. Có diện tích 290 ha, nó được xây dựng
nằm giữa đồi Phản Sơn (Feng San) và đồi Zhishan. Sáu cổng thành đã được tìm thấy
cho đến nay, hai ở phía bắc thành phố, hai ở phía đông và hai ở phía nam. Tất cả
đều là lối vào đường thủy liên kết với mạng lưới nước cả trong và ngoài thành
phố. Bên trong thành phố có đồi Mojiao và các gò đất nhân tạo cao khác, và Địa
điểm Fanshan nơi các đồ trang sức bằng ngọc của cấp độ cao nhất của Văn hóa
Liangzhu được khai quật từ những ngôi mộ của giới quý tộc. Bên ngoài thành phố,
di tích lịch sử được tìm thấy dày đặc trong một khu vực rộng khoảng 700 ha, và
xung quanh thành phố có sự tích lũy của các dấu vết của cuộc sống trong thời kỳ
cuối của Văn hóa Liangzhu; các địa điểm quan trọng có thể được tìm thấy trên hầu
hết các ruộng bậc thang như Wenjiashan, Bianjiashan và Meirendi nằm trên các
cánh đồng lúa 1-2 mét. Cũng được khai quật trong và ngoài thành phố là một số
lượng lớn các dụng cụ cho mục đích sản xuất, sinh hoạt, quân sự và nghi lễ được
đại diện bởi nhiều đồ trang sức bằng ngọc Liangzhu tinh tế của sự sâu sắc văn
hóa; phần còn lại bao gồm các bức tường thành phố, nền móng của các kiến trúc lớn,
lăng mộ, thay đổi, nhà ở, bến cảng và nhà xưởng ngụ ý sự tồn tại của thành phố
cổ lớn nhất của thời kỳ đồ đá mới ở lưu vực sông Dương Tử.
Biện minh cho giá trị
phổ biến nổi bật
Di
chỉ cho thấy một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và tôn giáo của Văn hóa
Liangzhu thời tiền sử (3300B.C.-
2300B.C.). Đô thị với quy mô hoành tráng, ý tưởng chọn địa điểm được bao bọc bởi
núi và sông, xây dựng thành phố bằng đá, hệ thống dẫn nước kết nối cả phần bên
trong và bên ngoài của thành phố, phân cấp không gian giữa các khu định cư khác
nhau và các cơ sở của một đô thị được thể hiện bởi nền tảng của các công trình
lớn, trình bày những thành tựu tối cao của nền văn minh định cư thời kỳ đồ đá mới
ở lưu vực sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Các loại, chức năng, mô hình và quy tắc
sử dụng ngọc bích được khai quật từ Phản Sơn và bàn thờ ở di chỉ Giao Sơn cho
thấy nguồn gốc của đặc điểm cơ bản của một quốc gia trong thời kỳ đầu của nền
văn minh Trung Quốc, cụ thể là nghi lễ và quân sự là cơ sở của quốc gia, và tầm
quan trọng trong văn hóa nghi lễ trong suốt 5.000 năm; các đồ trang sức bằng ngọc
được khai quật có ý nghĩa vô song trên toàn thế giới về ý nghĩa văn hóa và kỹ
thuật; đặc biệt, loại Công vua (một mảnh ngọc có hình vuông với một lỗ ở giữa),
với hình tượng thần và mặt nạ động vật điển hình nhất của ngọc bích Liangzhu
trưng bày các đặc điểm tôn giáo của nền văn minh nông nghiệp ở sông Hoàng Hà và
lưu vực sông Dương Tử. Di chỉ giải thích những thành tựu tối cao của nông nghiệp
lúa gạo trong giai đoạn đầu của nền văn minh Trung Quốc, thể hiện Văn hóa
Liangzhu có ý nghĩa sâu rộng trong sự phát triển 5.000 năm của nền văn minh
Trung Quốc, và là bằng chứng cho sự phát triển đa dạng và toàn vẹn của văn minh
Trung Hoa. Nó là một đại diện xuất sắc của các khu định cư lớn ở Đông Á cùng với
lịch sử của nền văn minh nhân loại và được bảo tồn tốt với tính xác thực và
tính toàn vẹn.
Khu khảo cổ Liangzhu
đáp ứng các Tiêu chí (ii), (iv) và (vi) để ghi vào Danh sách Di sản Thế giới.
Tiêu
chí (ii): Văn hóa Liangzhu được đại diện bởi Khu khảo cổ Liangzhu có ý nghĩa
sâu rộng và lâu dài trong giai đoạn đầu của nền văn minh Trung Quốc, và đóng một
vai trò nổi bật trong sự phát triển 5.000 năm của nền văn minh Trung Quốc.
Tiêu
chí (iv): di chỉ cho thấy một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và tôn giáo
của Văn hóa Liangzhu thời tiền sử (3300 BC-
2300 BC) của Trung Quốc. Di chỉ, với quy mô hoành tráng, ý tưởng lựa chọn địa
điểm bao trùm nền móng của các công trình lớn, trình bày những thành tựu tối
cao của nền văn minh định cư thời kỳ đồ đá mới ở lưu vực sông Hoàng Hà và sông
Dương Tử. Các loại, chức năng, mô hình và ứng dụng của ngọc bích được khai quật
từ Fanshan và bàn thờ Giao sơn cho thấy nguồn gốc của đặc điểm cơ bản của một
quốc gia trong thời kỳ đầu của nền văn minh Trung Quốc, cụ thể là “nghi lễ và
quân sự là cơ sở của một quốc gia”. Nó là một đại diện xuất sắc của các khu định
cư lớn ở Đông Á cùng với lịch sử của nền văn minh nhân loại.
Tiêu
chí (vi): Hình dạng, chức năng, thiết kế và hoa văn của ngọc Công được khai quật
từ Khu khảo cổ Liangzhu cho thấy nguồn gốc của văn hóa nghi lễ trong suốt 5.000 năm của nền văn minh Trung Quốc; mô
hình vị thần và mặt nạ động vật điển hình nhất của xứ sở ngọc bích Liangzhu thể
hiện các đặc điểm tôn giáo của nền văn minh nông nghiệp ở lưu vực sông Hoàng Hà
và sông Dương Tử.
Tuyên
bố về tính xác thực và / hoặc tính toàn vẹn
Xác
thực
Cuộc
khai quật và điều tra khảo cổ hơn 70 năm đã xác nhận tính xác thực của Khu khảo
cổ Liangzhu. Hầu hết các di cốt, cả bên ngoài và bên trong thành phố cổ, đều nằm
dưới những cánh đồng lúa và gò đất. Các phần của các bức tường thành phố phía bắc,
phía tây và phía nam đã được đào và che chở để bảo vệ. Những tàn dư ở Yao Sơn,
Fanshan và Meirendi được lấp đầy sau khi khai quật khảo cổ. Cụ thể, các bàn thờ
và lăng mộ của Yao Sơn và Fanshan được diễn giải thông qua mô phỏng trên mặt đất
mà không có sự can thiệp trực tiếp đến các địa điểm. Các phần còn lại thường được
chôn dưới lòng đất mà không có sự can thiệp nhân tạo. Tóm lại, di chỉ Khảo cổ
Liangzhu thường có tính xác thực tốt, và nguồn thông tin trung thực và đáng tin
cậy giúp hiểu các giá trị của tài sản.
Chính
trực
Khu
vực tài sản được đề cử của Khu khảo cổ Liangzhu là 908,89 ha, bao gồm toàn bộ
các yếu tố cốt lõi của thành phố là 290 ha, các phần còn lại của tường và cổng
thành, Lăng Fanshan, nền tảng của các công trình lớn ở Mojiao Hill và khác,
cũng như các yếu tố của khung cảnh lịch sử: những ngọn đồi bị cô lập như đồi
Feng Sơn, đồi Zhishan và đồi Qianshan, một số hệ thống nước lịch sử và môi trường
sinh thái đất ngập nước; các đặc điểm của việc lựa chọn địa điểm và môi trường
định cư của Thành phố cổ Liangzhu được bảo tồn với tính toàn vẹn tốt. Trong khi
đó, vùng đệm có diện tích 10.256,45 ha bao gồm bối cảnh lịch sử hoàn chỉnh của
Núi Daxiong và Núi Dazhe, cũng như các di sản cùng thời là Yao Sơn, Đường Sơn,
Xun Sơn, Huiguanshan và Yaojiadun cần được nghiên cứu khảo cổ hơn nữa. Tóm lại,
Khu khảo cổ Liangzhu có tính toàn vẹn tốt, phần còn lại dưới lòng đất phong phú
và về cơ bản vẫn giữ được bối cảnh nguyên thủy và diện mạo lịch sử, đáp ứng điều
kiện toàn vẹn, với sự toàn vẹn và nguyên vẹn của địa điểm và các thuộc tính của
nó được bảo tồn tốt.
So sánh với các di chỉ
tương tự khác
So sánh với các di sản
văn hóa cùng loại ở Trung Quốc
So
sánh với Ân Khư: Ân Khư, một di sản thế giới của Trung Quốc 1300B.C.-1046B.C.,
Được biết đến với các chữ khắc Trung Quốc và các địa điểm kiến trúc lớn và là một
đại diện của giai đoạn định hình của nền văn minh Trung Quốc; Thành phố cổ
Liangzhu tự hào với địa điểm rộng lớn của thành phố và đồ ngọc là một đại diện
cho giai đoạn đầu của nền văn minh Trung Quốc. Hai tương ứng đại diện cho các
giai đoạn thiết yếu và kết nối của nền văn minh Trung Quốc.
So
sánh với Khu văn hóa Hồng Sơn: Khu khảo cổ Liangzhu nằm trong vùng đồng bằng của
mạng lưới sông ở hạ lưu sông Dương Tử đại diện cho đỉnh cao của nông nghiệp lúa
gạo ở phía nam Trung Quốc vào cuối thời đại đồ đá mới, trong khi Khu văn hóa Hồng
Sơn ở vùng đồi núi của sông Lao Hà lưu vực đại diện cho đỉnh cao của nông nghiệp
với săn bắn và chăn nuôi ở phía bắc Trung Quốc trong giai đoạn đầu của nền văn
minh Trung Quốc. Sự so sánh giữa Văn hóa Liangzhu và Văn hóa Hồng Sơn là cả hai
đều nêu bật văn hóa ngọc bích và thể hiện sự khác biệt rõ ràng trong hình thức
định cư và tôn giáo.
So
sánh với các địa điểm thành phố thời tiền sử: Thành phố cổ Liangzhu là địa điểm
thành phố thời kỳ đồ đá mới đầu tiên được tìm thấy ở vùng hạ lưu của sông Dương
Tử. So với các di chỉ khác của các thành phố thời kỳ đồ đá mới sớm hơn 2000
B.C. ở Trung Quốc, đặc biệt là các lưu vực sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, nó
có các yếu tố nông nghiệp lúa gạo về vị trí, quy mô, bố cục, kỹ thuật xây dựng,
hình thức và các loại hài cốt, ngụ ý vai trò của các nền văn minh nông nghiệp
và môi trường địa lý khác nhau trong sự phát triển các khu định cư của con người.
So
sánh với các ngọc bích thời tiền sử được khai quật từ các địa điểm văn hóa cổ đại
khác: tất cả các ngọc bích thời tiền sử khai quật, được tìm thấy ở các nơi khác
trên thế giới, không thể so sánh được về số lượng, hình dạng, tay nghề, mô hình
và thiết kế, chức năng, các quy tắc sử dụng, ảnh hưởng văn hóa và ý nghĩa tinh
thần với các ngọc bích được khai quật từ Khu khảo cổ Liangzhu
So sánh với di sản văn
hóa cùng loại trên thế giới
So
với tám khu định cư thời kỳ đồ đá mới được ghi trong Danh sách di sản thế giới,
Khu khảo cổ Liangzhu có ý nghĩa nổi bật về tính đại diện của nền văn minh nông
nghiệp lúa gạo, quy mô của khu định cư thời tiền sử, và ý nghĩa văn hóa và tâm
linh của các đồ dùng được khai quật.
Tóm
lại, Khu khảo cổ Liangzhu là một địa điểm vô song với những di tích ngầm nguyên
vẹn và đầy đủ thông tin phong phú về giai đoạn đầu của nền văn minh nhân loại
hiếm thấy ở các địa điểm khác cùng thời hoặc trong các địa điểm cùng loại.”
(Liangzhu Archaeological Site
https://whc.unesco.org/en/tentativelists/5805/)
Tài liệu của UNESCO xác
nhận:
1. Di
tích văn hóa Lương Chử đã được khai quật, bảo quản và nghiên cứu đạt chuẩn mưc
khoa học, đảm bảo tính nguyên bản, khách quan, trung thực nên đáng tin cậy.
2. Văn
hóa Lương Chử hội đủ những quy chuẩn của kinh đô nhà nước cổ đại tiến bộ và sớm
nhất ở phương Đông.
3. Tuy
nhiên, việc UNESCO không công nhận văn hóa Lương Chử có chữ viết là điều đáng tiếc.
Việc này thể hiện nhận thức hạn chế của học giới phương Tây vốn không thừa nhận
giáp cốt văn trước thời Thương là văn tự. Một biểu hiện thiếu công bằng trong
cách nhìn nhận của học giả phương Tây về văn hóa phương Đông.
Năm 2017, dựa trên tài
liệu được công bố sau 80 năm phát hiện và khảo cứu Văn hóa Lương Chử, chúng tôi
viết và cho in cuốn Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại tới hiện thực tại Nhà xuất
bản Hội Nhà văn. Nội dung cơ bản của cuốn sách chúng tôi dành cho việc chứng
minh nhà nước Lương Chử chính là nhà nước Xích Quỷ tồn tại dai dẳng trong truyền
thuyết Việt với bốn tiêu chí sau:
1. Về thời điểm.
Khảo cổ học xác định văn hóa Lương Chử xuất hiện từ 3300 năm TCN.
Trong khi đó truyền thuyết nói Thần Nông sống khoảng 3320-3080 năm TCN. Điều
này cho thấy sự trùng hợp phải nói là kỳ diệu giữa truyền thuyết và tài liệu khảo
cổ. Chu dịch ghi “Bào Hy thị một, Thần Nông thị xuất.” Như vậy, Thần Nông không
phải là vị vua đầu tiên của người Việt. Nhà nước Thần Nông hình thành trên
cương vực của nhà nước Bào Hy và từ đó phát triển lên. Việc truyền thuyết ghi
Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN - hơn 400 sau khi
nhà nước Lương Chử hình thành - cho thấy, Xích Quỷ ra đời đúng vào thời kỳ sung
mãn của Lương Chử.
2. Về cương vực:
Khảo cổ học cho thấy lãnh thổ nhà nước Lương Chử chiếm trọn vẹn lưu vực
sông Dương Tử. Phía tây bắc vươn tới Sơn Tây. Phía Đông Bắc chạm tới vùng Sơn
Đông, có bộ phận vượt sông Dương Tử lên bờ Bắc.
Trong khi đó truyền thuyết nói nước Xích Quỷ: bắc tới Hồ Động Đình,
đông tới Biển Đông, tây giáp Ba Thục, nam tới nước Hồ Tôn. Như vậy ranh giới của
Xích Quỷ gần như trùng với ranh giới của nhà nước Lương Chử. Cố nhiên, ta biết,
ranh giới quốc gia theo truyền thuyết và ranh giới quốc gia theo khảo cố chỉ là
tương đối bởi lẽ thường có sự chồng lấn văn hóa nên ranh giới văn hóa thường
không phải là ranh giới quốc gia. Dù có như vậy thì ta cũng thấy một thực tế là
về đại thể, ranh giới của nhà nước Lương Chử trong khảo cổ học gần khớp với
ranh giới của Xích Quỷ truyền thuyết.
3. Kinh đô
Trong khi khảo cổ học phát hiện kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ thì
truyền thuyết nước Xích Quỷ hầu như không nói tới Thái Hồ mà chỉ nhắc tới hồ Động
Đình là nơi mà Kinh Dương Vương đi chơi thuyền rồi gặp Long nữ con gái Động
Đình Quân. Cũng ở đây còn có sông Tương với cánh Đồng Tương là nơi các người
con của Lạc Long Quân gặp lại nhau. Nhưng câu hát ru dân gian nhắc tới trăng Tiền Đường:
Gió Động Đình mẹ ru
con ngủ
Trăng Tiền Đường thức
đủ năm canh.
Sông Tiền Đường là dòng sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang, bắt nguồn
từ vùng ranh giới giữa hai tỉnh An Huy và Giang Tây, chảy theo hướng tây
nam-đông bắc qua Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang, đổ ra vịnh Hàng Châu.
Những điều trên phải chăng là chút ánh sáng từ ngôi sao đã tắt gửi tới
chúng ta dấu vết hiếm hoi của tổ tiên từng sống bên sông Tiền Đường?
4. Về chủ nhân Lương
Chử
Từ vật chứng ADN lấy trực tiếp trên di cốt Lương Chử, khoa học xác nhận,
dân cư Lương Chử gồm hai dạng có mã di truyền M122 và M119. M122 chính là chủng
Indonesian, M119 chính là chủng Melanesian, hai chủng người đa số được sinh ra ở
Việt Nam 70.000 năm trước và 40.000 năm cách nay đi lên Hoa lục. Hai chủng người
làm nên dân cư Lương Chử. Khoảng 2300 năm TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương
Chử bị nhấn chìm, người Lương Chử phải dời đi nơi khác. Chủng người Indonesian
đi lên vùng đất cao xung quanh còn chủng Melanesian di tản sang đảo Đài Loan rồi
xuống Philippines, góp phần làm nên dân cư Polynesian chiếm lĩnh các đảo Nam
Thái Bình Dương. Phải chăng điều này là gợi ý cho “50 con trai của Mẹ Âu Cơ lên
rừng và 50 con trai xuống biển?”
Từ vật chứng khảo cổ, các học giả Trung Quốc thừa nhận, chủ
nhân nền văn hóa Lương Chử là người Lạc Việt! Từ những hình thao thiết “mình nhân diện thú” khắc trên ngọc thờ,
các học giả Trung Quốc xác nhận: người Lương Chử là “Vũ nhân” hay “Vũ dân” (羽人或羽民) thờ vật tổ chim và thú. Đấy là một phát hiện đặc biệt. Các tộc người
thời cổ đều thờ vật tổ. Vật tổ của người Nga là con gấu, của người Pháp là con
gà trống. Còn người Mông Cổ du mục thờ con sói trắng. Vật tổ của người Hoa Hạ
là con rồng. Nhìn chung, với loài người, vật tổ chỉ đơn nguyên, hoặc là chim hoặc
là thú. Riêng có người Lạc Việt nhận vật tổ kép chim và thú, được hình tượng
hóa thành Tiên và Rồng. Ta nhận ra ở đây mối liên hệ sâu thẳm từ trong quá khứ.
Đó là hai vạch song song được khắc trên những hòn đá mài ở văn hóa Bắc Sơn mà
khảo cổ học gọi là “Dấu Bắc Sơn”. Nhiều
học giả giải thích đó là biểu hiệu của quan niệm “song trùng lưỡng hợp” (hai
trong một - dual unit) của người Việt. Quan niệm này được phản ánh trong truyền
thuyết Hồng Bàng thị (鴻龐). Thời
đó, do trong tiếng Việt phụ âm chưa phân biệt và thanh điệu chưa xác định nên
có thể có những dạng: krong => hồng
=> sông => long => rồng. Vậy Hồng có nghĩa là Rồng. Nhưng chữ Hồng 鴻 trong Hồng Bàng với bộ Điểu và chữ Giang, ta có thể chắc là chữ để chỉ
tên loài chim nước, như là con ngỗng trời, còn gọi là hồng hạc. Do đó Hồng cũng là chim. Vậy, trong Hồng
Bàng, Hồng là chim, là biểu trưng của Tiên.
Tương tự, chữ Mang (厖) có thể là ký âm của mạng, mãng, vàng. Ta quen gọi rắn
là mãng xà nhưng với người xưa thì mãng
và xà cùng là rắn. Hãy nhớ tích Lưu
Bang chém rắn trắng khởi nghiệp để rồi cuối cùng bị con rắn chúa Vương Mãng diệt. Mang là rắn. Rắn cũng
là rồng. Trong việc chọn chữ vuông để ký âm tiếng Việt cổ Hồng Bàng sau này,
người đầu tiên đã dùng chữ Mang 厖 với nghĩa mãng.
Nếu liên hệ tới những biến dạng khác của chữ Bàng 龐, ý nghĩa rồng rắn của từ
Mang càng rõ hơn. Do vậy, Hồng Bàng là Chim và Rắn tức là Tiên Rồng.
Có thể chữ Hồng Bàng được khắc trên ngọc hay giáp cốt ngay từ thời Kinh Dương
Vương tại kinh đô Lương Chử. Có điều đã bị thất lạc nên người sau không tìm được.
Từ những liên hệ trên, ta có thể nhận định: chủ nhân của văn hóa Lương Chử là thị tộc Hồng Bàng.
Với
bốn tiêu chí: thời điểm, cương vực, kinh
đô và dân cư như phân tích trên, ta thấy, có sự tương đồng rõ ràng giữa nhà
nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện và nhà nước Xích Quỷ trong truyến
thuyết của người Việt Nam. Giữa những vật chứng câm lặng nằm sâu trong lòng đất
hàng nghìn năm và những câu truyện truyền miệng mong manh suốt 5000 năm trong
dân gian mà có được sự gần gũi, tương đồng như vậy quả là lý tưởng. Điều này
khiến ta có thể mạnh dạn khẳng định:
Nhà nước Lương Chử được khảo cổ học phát hiện chính là nhà nước Xích
Quỷ trong truyền thuyết.
Tuy khẳng định một cách vững chắc như vậy nhưng trong lòng chúng tôi vẫn
mang nỗi băn khoăn khi nhìn trên bản đồ thấy di chỉ văn hóa Lương Chử rải rác
khắp vùng Giang Nam mà sao không có bất cứ địa điểm nào trên đất Việt Nam? Có vấn
đề gì ở đây? Phải chăng Việt Nam nằm ngoài “vùng phủ sóng” của văn hóa Lương Chử?
Rồi tin mững đã tới, bạn chúng tôi, nhà trà học Trịnh Quang Dũng gửi
cho một số bức ảnh hiện vật ngọc của nhà sưu tập đồ cổ Vũ Ngọc Tân tại Hà Nội
mà ông nói là ngọc Lương Chử. Xem ảnh, tôi nhận ra ngay, đó là ngọc Lương Chử. Sau
đó, nhờ ông Dũng giới thiệu, tôi và nhà nghiên cứu văn hóa Việt cổ Lê An Vi tới
thăm sưu tập ngọc Xích Quỷ giữa Thủ đô Hà Nội. Cảm giác của chúng tôi là sung
sướng và choáng ngợp trước kho bảo vật vô giá của dân tộc. Tôi hoàn toàn tin đó
là di vật Lương Chử mà hiện vật thuyết phục nhất là motif thao thiết “hình nhân diện thú”, hai hình tròn đối xứng ngang “ly
tâm” & “quy tâm” được khắc trên chiếc gối ngọc. Tất cả đều là những sản phẩm
được chế tác bởi những nghệ nhân bậc thầy và đều in dấu ấn của thời gian. Rất
thân tình, ông Vũ Ngọc Tân bật mí: “Những người đào than ở Uông Bí khi phát hiện
hầm ngọc đã giữ nguyên hiện trạng rồi báo cho ông. Ông đã cùng họ thu hồi hiện
vật.”
Cố nhiên là không ít câu hỏi được đặt ra với kho báu này: Ngọc Lương
Chử thực hay giả? Chúng có mặt ở Uông Bí thời gian nào? Hoàn cảnh nào dẫn đến
việc chúng xuất hiện ở đây? Theo nhận định của chúng tôi, đây chính là hiện vật
ngọc Lương Chử điển hình, được chế tác vào thời kỳ hưng thịnh nhất của văn hóa
Lương Chử. Ngọc của văn hóa Mã Kiều sau đó thô hơn. Tôi gửi hình cho nhà khảo cổ
tên tuổi, ông nói: “Nhìn qua, thấy ngay là ngọc Lương Chử. Nhưng thật hay giả
là cả một vấn đề.” Sự thận trọng của nhà chuyên môn là hợp lý. Nhưng theo suy
nghĩ thông thường, việc đem đồ giả tới khu vực được cho là không thuộc văn hóa
Lương Chử để “đặt bẫy” là chuyện khó xảy ra. Tôi cũng tin vào người lính cũ Vũ
Ngọc Tân. Là nhà sưu tập đồ cổ có tiếng, ông cũng trang bị cho mình tri thức
hàng đầu về đồ cổ của thế giới nên không dễ bị lừa một khối tài sản lớn. Ông
cho biết, nhiều chuyên gia cổ vật người Nhật tới thăm, lúc đầu họ khách khí
nhưng sau khi tiếp xúc hiện vật, đã tỏ ra kính nể không chỉ kho báu vô giá mà cả
chủ nhân của nó.
Câu hỏi về thời gian kho ngọc xuất hiện ở Quảng Ninh có lẽ chẳng bao
giờ được trả lời vì hiện vật không được
khai quật theo phương pháp khoa học và sau đó hiện trường cũng bị hủy hoại. Còn
câu hỏi về hoàn cảnh xuất hiện của kho ngọc, theo chúng tôi, nhiều khả năng như
sau. Ngọc nguyên liệu được khai thác từ mỏ ngọc ở Đài Loan, đưa về trung tâm chế
tác Lương Chử. Vùng Quảng Ninh là trung tâm kinh tế văn hóa lớn, có những quan
chức hay thủ lĩnh giàu có, đã mua ngọc từ Lương Chử về dùng và quan trọng hơn
là để thể hiện đẳng cấp của mình. Khả năng Uông Bí là nơi chế tác ngọc khó xảy
ra.
Như vậy Uông Bí chính là địa điểm đầu tiên ở Việt Nam phát hiện di vật
ngọc Lương Chử. Phát hiện này là vô giá vì nó cung cấp bằng chứng cứ vật chất rằng
đất Việt Nam cũng thuộc về văn hóa Lương Chử. Điều này cũng khẳng định người Việt
Nam là hậu duệ của Thần Nông, Đế Minh, Kinh Dương Vương và Xích Quỷ là nhà nước
đầu tiên của dân tộc ta. Sưu tập ngọc Lương Chử của ông Vũ Ngọc Tân là kho tàng
văn hóa vật thể vô giá. Nhưng khi những con chữ khắc trên ngọc như bốn chữ trên
mặt ấn rùa (Quy ấn) và những chữ khắc trên búa ngọc nhìn có vẻ “khôn” gần với
giáp cốt văn Ân Khư được giải mã, sẽ cung cấp những thông tin thuộc văn hóa
tinh thần soi sáng lịch sử.
Xin giới thiệu một số hình ảnh về bộ sưu tập vô giá này và xin chân thành cảm ơn ông Vũ Ngọc Tân đã cho thưởng lãm kho báu vật.
Quy ấn với chữ cổ
Thẻ ngọc Rìu
Ảnh ông Vũ Ngọc Tân và người viết
(Ảnh: Lê
An Vi)