Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Thép Súng: Ðiểm NÓNG Biển-Ðông

Thép Súng: Ðiểm NÓNG Biển-Ðông: (Các bạn muốn tìm hiểu chi tiết nên xem mục Thời sự “Xung-khắc giữa Mỹ, TQ, VN) Sách lược Eurasian 1920-2020 trong đó phải kể, nhiều người...

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

015011 VỀ HIỆN TƯỢNG KEITH WELLER TAYLOR

015011  

VỀ HIỆN TƯỢNG 
KEITH WELLER TAYLOR

Hà Văn Thùy





     Trong lễ trao Giải thưởng Phan Châu Trinh cho sử gia người Mỹ K.W.Taylor, diễn ra tại khách sạn Caravelle thành phố Hồ Chí Minh ngày 24-3-2015, nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi người nhận giải bằng những lời có cánh:
“Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam cả ở nước ngoài. Ông cũng là một nhà Việt Nam học độc đáo, từ điểm xuất phát, đến con đường nghiên cứu Việt Nam học ông đã đi, các chặng khác nhau và những chuyển hướng trên con đường đó, và có lẽ cả ở sự gắn bó, gần gũi kỳ lạ của ông với giới nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam, những chuyển động bên trong nghiên cứu ấy.”
Và:
“Xin cám ơn Keith Weller Taylor, vì tình yêu chân chính và nổ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam.”
   Không ít phản ứng trái chiều đã rộ lên. Nhưng với người am hiểu, sẽ thấy rằng, đó không phải lời lẽ của riêng Nguyên Ngọc. Ông Nguyên Ngọc chỉ là người phát ngôn cho xu hướng đang ngự trị giới sử học Việt Nam hiện nay. Đó là xu hướng xét lại, phủ định lịch sử Việt Nam hình thành từ xa xưa tới thời Việt Nam dân chủ công hòa. Một xu hướng được bắt đầu bằng việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt, bằng chối bỏ nhà nước Xích Quỷ cùng Kinh Dương Vương để dựng lên nhà nước Văn Lang 2700 năm tuổi. Đó cũng là xu hướng phủ định một dân tộc Việt Nam thống nhất, có lịch sử lâu dài. Xin mời đọc: Trần Trọng Dương-Keith Weller Taylor: Hành trình của một sử gia
(http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=8708)
   Để rộng đường ngôn luận, tôi xin thưa lại đôi lời.
  Về sử gia Keith Weller Taylor và học trò của ông, tôi đã có những bài viết: Bài học khó thuộc (2005), Một cách nhìn lịch sử hời hợt và méo mó (2006), Học giả Mỹ viết gì về sử Việt (2014). Ở đây chỉ xin nói một cách khái quát.
I. Hoàn cảnh khai sinh của sử gia K.W. Taylor
 Năm 1972, chàng trai trẻ vốn dòng hào kiệt K.W.Taylor ôm đầu máu trở về từ Việt Nam trong lúc cao trào chống chiến tranh xâm lược sôi động khắp nước Mỹ. Chung số phận nhiều cựu chiến binh khác, chàng trai đã có lúc mất phương hướng. Nhưng rồi là người có nghị lực nên lý trí trở lại. Vốn sẵn có lợi thế tiếng Việt của một sĩ quan tình báo quân đội và những trải nghiệm cá nhân từ Việt Nam, Taylor ghi tên học Việt học. Năm 1976 nhận bằng Tiến sĩ Đại học Michigan.
Cuộc chiến Việt Nam chia rẽ nước Mỹ với câu hỏi đau đớn: Vì lẽ gì, con voi thua con kiến?! Lúc này những chính trị gia và học giả trung thực cho rằng, Mỹ đã chọn lầm đối tượng. Việt Nam là nước nhỏ nhưng tinh thần dân tộc rất cao và được dẫn dắt bởi một vĩ nhân là Hồ Chí Minh. Với tinh thần thượng võ, không ít người Mỹ nghiêng mình bái phục dân tộc Việt. Cũng lúc này, chủ súy ngành Việt học nước Mỹ là Giáo sư O.W. Wolters. Là người Anh, từng sống nhiều năm ở Malaysia, hiểu biết và có cái nhìn chân thực về lịch sử Đông Nam Á, ông có tiếng nói quan trọng với giới học thuật. Trong bối cảnh đó, cuốn The Birtth of Vietnam (Việt Nam khai quốc) ra đời.
   Nhưng cũng vào năm tháng đó, cùng với những thất bại của chính quyền Việt Nam như việc chiếm đóng Campuchia, bóp nghẹt nhân quyền, vụ thuyền nhân, nền kinh tế suy sụp… một phong trào chống Cộng được dấy lên trong nước Mỹ. Những tư tưởng phục thù dai dẳng từ sau 1975 được dịp vùng dậy. Không ăn được thì đạp đổ là tâm lý của những người này. Họ đã ra sức đạp đổ bằng cách vùi dập dân tộc Việt. Từ vùi dập Hồ Chí Minh, đến vùi dập lý tưởng cao cả giải phóng dân tộc của người Việt. Với giới học thuật, không gì tiện hơn là phủ định sử Việt: phủ định cái nguyên nhân căn cốt làm nên chiến thắng. “Việt Nam không hề là một dân tộc thống nhất mà chỉ là đám người nói tiếng Việt tụ tập nhau tại đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỷ cuối trước Công nguyên”. “Đó là những con người hiếu chiến luôn chém giết nhau bằng những cuộc tranh giành giữa các vùng miền…” K.W. Taylor quay ngược ngọn cờ. Bằng nhiều bài viết mà tập trung là cuốn Có một lịch sử của người Việt Nam  A History of the Vietnamese (2013) ông đã thể hiện mãnh liệt ý hướng đó.
II. Đánh giá “công trình” của K.W.Taylor.
“Sự nghiệp” Việt học của K.W.Taylor được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu với The Birth of Vietnam. Giống như đứa trẻ “lần giường tập đi”, khi bước vào lĩnh vực mới mẻ, Taylor phải nương vào sách sử Việt Nam từ Đại Việt sử ký toàn thư cho tới thành quả của nền sử học Việt Nam hiện đại. Cuốn sách gần như một bản chuyển ngữ từ cuốn thông sử Việt Nam sang tiếng Anh. “Nó là một kênh truyền tải tiếng nói của các nhận thức lịch sử ở trong nước [Việt Nam] đến với giới học thuật quốc tế thông qua lăng kính khúc xạ mang tên K.W. Taylor.” [Trần Trọng Dương - bài đã dẫn]. Các nhà chép sử người Việt có thể vui mừng vì có một cậu học trò thuộc bài. Ở Việt Nam không ai đánh giá cao cuốn sách này.
Giai đoạn sau với cuốn A History of the Vietnamese (2003). Nhận định về cuốn sách này, Tiến sĩ Trần Trọng Dương viết: “… ông đã tự thanh tẩy toàn bộ/ hoặc phần lớn những tri thức của mình về lịch sử Việt Nam. Taylor đã dành hơn hai chục năm vừa rồi để viết lại những nhận thức KHÁC. Chính vì vậy, trong cuốn sách mới này, ông chỉ dành vỏn vẹn 30 trang, để xóa bỏ hết những gì đã viết trong gần 400 trang của cuốn The Birth of Vietnam.” [TTD-bài đã dẫn]
Và đây là cái KHÁC của tác giả:
“Ông lấy An Dương Vương làm vị vua khởi đầu của lịch sử, và gần như đã không đề cập gì đến những huyền thoại Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân- Âu Cơ (bọc trăm trứng), Sơn Tinh - Thủy Tinh, Tản Viên, Chử Đồng Tử,... nữa. Cả khái niệm “Bách Việt” do người Hán sáng tạo để áp đặt/nô dịch tinh thần những cộng đồng dân cư khác Hán ở Phương Nam, đến đây cũng đã bị loại thải. Cái quan niệm của chủ nghĩa huyết thống tập thể, rằng “tất cả những người có cùng quốc tịch (bất kể thuộc về dân tộc nào) đều là những người cùng huyết thống, là cùng một bọc sinh ra, là đồng bào, anh em cốt nhục”..., đến đây, cũng đã được cho vào quên lãng. Ông viết rằng: “nhu cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ xa xăm là nỗ lực nhận thức chung của nhiều dân tộc ở mọi thời điểm và mọi không gian... Nhưng nhu cầu bức thiết kết nối với quá khứ đó chỉ là một ham muốn chứng thực tự thân, chứ không phải là nỗ lực học thuật”. Ông cũng nói rõ rằng, những gì mà các sử thần thời Trần và Lê sơ đã làm khi biên soạn những bộ sử đầu tiên của người Việt là cắt dán, lắp ghép các nguồn tư liệu Hán văn cho phù hợp với sự tưởng tượng về quá khứ và tổ tiên của mình, nhằm tạo ra lịch sử của phương Nam trong thế đối chọi với lịch sử của phương Bắc. Sử Tàu dài bao nhiêu sử Việt nhiều từng ấy, họ có gì thì ta có đó. Với cách làm như vậy, phần lớn sử thần Nho gia thời trung đại đã mắc bẫy các sử thần Nho gia Trung Hoa, bằng cách kéo nhập lịch sử Việt Nam “đồng nguyên” [cùng một gốc] với lịch sử Trung Quốc. (TTD-bài đã dẫn)
 Các học giả Việt Nam đã/ đang nỗ lực triển khai dự án để đẩy bản sắc dân tộc trở ngược về quá khứ xa nhất có thể. Trong thời kỳ hiện đại, điều đó đã trở thành phổ thông/ phổ biến với người Việt khi họ xác nhận lịch sử quốc gia kéo dài 4.000 năm, cho đến tận thời điểm mà các niên đại và hiện vật khảo cổ học được tập hợp và phân loại trong nền văn hóa Phùng Nguyên... Nhiều học giả người Việt toan tính vạch đường “chỉ đỏ xuyên suốt” ở lĩnh vực văn hóa, thậm chí cả ở ngôn ngữ - dân tộc, [để chứng minh] sự phát triển nối liền từ thời Phùng Nguyên đến tận Việt Nam hiện đại.” (TTD-bài đã dẫn)
Tới đây, ta hãy thử bàn về những “khám phá” của “nhà Việt học.” Nói nôm na, Việt học là việc nghiên cứu tất cả những gì thuộc về người Việt trong tư cách một dân tộc, một đất nước. Do vậy, vấn đề tiên quyết đặt ra là xác định: người Việt là ai, có cội nguồn từ đâu, qua quá trình lịch sử thế nào để có mặt trên đất nước Việt Nam như ngày hôm nay? Cho đến giữa thế kỷ trước, từ cổ thư Trung Hoa và những khám phá khảo cổ học sơ khởi ở Đông Á, học giả Pháp cho rằng: tổ tiên ngưởi Việt xuất hiện trên đất Trung Hoa từ thế kỷ XI TCN mà hậu duệ là nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Năm 333 TCN, nước Sở diệt nước Việt, một bộ phận người Việt chạy xuống Bắc Việt Nam, trở thành người Việt hôm nay.
Nhưng tới thập niên 1980s, bằng khảo sát hơn trăm cốt sọ tìm được ở Việt Nam và Đông Nam Á cùng với những khám phá khảo cổ học mới nhất, khoa học đã xác nhận: suốt Thời Đá mới, dân cư trên đất Việt Nam thuộc chủng Australoid nhưng sang Thời kỳ Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở nên chủ thể dân cư đất nước này.[1] Như vậy, bằng khảo cổ và cổ nhân chủng học, khoa học khẳng định, người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam định cư trên đất Việt Nam từ hơn 4000 năm trước.
Không chỉ vậy, sang thế kỷ này, nhiều tài liệu di truyền học khám phá rằng: Người tiền sử đặt chân tới Việt Nam từ 70.000 năm trước, sau đó tăng nhân số rồi lan tỏa ra toàn bộ châu Á.[2] Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các dân cư châu Á.[3]
Như vậy, bằng việc “tra hỏi” các mẩu xương, các hòn đá và cả ADN, khoa học chỉ ra, người Việt Nam là tổ tiên các dân cư châu Á, đất Việt là nơi phát tích của con người châu Á. Người tiền sử đặt chân lên trước hết tới Việt Nam. Sau khi hòa huyết, hòa trộn tiếng nói, người từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Khoảng 7000 năm trước, tại phía nam Hoàng Hà, người Việt Australoid hòa huyết với người Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra người Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều. Khoảng 5000 năm trước, tại lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử xuất hiện nhà nước sớm nhất của người Việt với vị vua huyền thoại Thần Nông mà kinh đô là Lương Chử. Khoảng 2879 năm TCN, trên đất đai của nhà nước Thần Nông, nhà nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời. Khoảng năm 2698 TCN, người du mục Mông Cổ mở trận quyết chiến ở Trác Lộc đánh bại liên quân Việt của Lạc Long Quân và Đế Lai. Do bại trận, người Việt chủng Mongoloid phương Nam từ Núi Thái - Sông Nguồn (đồng bằng Trung Nguyên ngày nay) di cư về Việt Nam và Đông Nam Á. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid phương Nam hòa huyết với dân Australoid bản địa, làm chuyển hóa đại bộ phận dân cư Đông Nam Á sang mã di truyền Mongoloid phương Nam. Và đó là người Đông Nam Á hiện đại. Không phải đám trôi sông lạc chợ tụ tập nhau ở đồng bằng sông Hồng thiên niên kỷ cuối Trước Công nguyên mà người Việt có mặt ở Việt Nam từ 70.000 năm trước. “Đồng bào”- cùng một bọc - là chữ chính xác nhất và hay nhất để nói về dân cư Việt Nam: Trên đất Việt, chỉ duy nhất chủng người Việt Mongoloid phương Nam với nhiều sắc tộc khác nhau.[4]
  Cũng từ chứng cứ không thể phản bác, khoa học chứng minh rằng, phần chủ thể của dân cư Trung Hoa là người Việt. Do vậy, tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Từ những phát hiện khảo cổ học về ký tự ở văn hóa Giả Hồ, Bán Pha, Lương Chử, nhất là phù tự Cảm Tang cuối năm 2011 cùng chữ viết của 340.000 người thiểu số tộc Thủy Quảng Tây và từ chính chữ Trung Hoa cho thấy, người Việt là chủ thể sáng tạo của Giáp cốt văn. Không chỉ vậy, những thành tựu rực rỡ của văn hóa Trung Hoa như kinh Dịch, kinh Thì… cũng là sản phẩm của tộc Việt.[5]
Từ những khám phá mới về lịch sử phương Đông nhìn vào hai cuốn sách của K.W.Taylor ta thấy: The Birth of Vietnam tuy không có bổ sung hay diễn giải mới về sử Việt nhưng là việc làm lương thiện vì có công chuyển ngữ cuốn sử Việt Nam sang tiếng Anh. Trong khi đó A Hystory of the Vietnamese là một sự xuyên tạc thô bạo lịch sử Việt Nam, tạo ra một lịch sử giả tưởng theo chủ quan người viết. Jared Diamond, nhà nhân học hàng đầu nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì liên quan tới con người mà không được di truyền học kiểm định đều không đáng tin.”  Khi viết sử Việt Nam, ông K.W. Taylor chưa thể tiếp cận những tài liệu di truyền học là điều có thể hiểu được vì lúc đó những tài liệu như vậy chưa có. Nhưng việc không biết tới những phát hiện khảo cổ học của Solheim II [6], sách Eden in the East [7] … là điều không thể chấp nhận! Sứ mạng sử gia là đem lại chân lý cho lịch sử. Với cuốn sách sai lạc như vậy, ông không những không góp được gì mà trái lại, làm rối loạn học thuật.
Một câu hỏi cũng cần được đặt ra: vì sao K.W.Taylor được ủng hộ không chỉ ở nước Mỹ mà ngay cả ở Việt Nam? Ở Mỹ, câu chuyện khá đơn giản. Khi giới sử gia già như Wolter khuất bóng thì với The Birth of Vietnam, K.W.Taylor được ngộ nhận trở thành thống soái môn Việt học nước Mỹ. Không ít đệ tử trẻ tuổi cùng xu hướng tư tưởng như ông. Và cũng có sự thực là, chính những lời tán dương của học giả Việt Nam góp phần không nhỏ chắp cánh cho “uy tín” của “nhà Việt học hàng đầu”! Xin dẫn một thí dụ. Đầu năm 2005, sau khi khai quật di chỉ Mán Bạc ở Ninh Bình, Tiến sĩ  Marc Oxenham tuyên bố: “Người từ Trung Quốc mang nông nghiệp tới Việt nam.” Bị giới làm sử Việt Nam phản đối, vị học giả của Đại học Canberra phải lên tiếng cải chính. Hẳn sau này ông sẽ viết lách thận trọng hơn. Nhưng với Taylor thì khác. Trong khi cố tình lờ đi, coi như không biết tới bài Tôi đã bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào? Một bài viết với giọng hằn học xúc phạm dân tộc Việt cùng cuộc chiến tranh giải phóng thì người ta dịch rồi in bài Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 13 đến 19, một bài viết xuyên tạc trắng trợn lịch sử Việt Nam Trung đại! Nếu các nhà chép sử Việt Nam lên tiếng phản bác một quan điểm như vậy, tình hình sẽ khác đi!
Còn ở Việt Nam, câu trả lời cũng không khó. Do bị hàng ngàn năm chiếm đóng nên lịch sử Việt Nam là những trang vô cùng mong manh với rất nhiều nghi vấn. Vì vậy, từ lâu, người Việt không hài lòng với cuốn sử của mình. Nhu cầu chỉnh sửa là mong ước tự thân. Truyền thuyết một bọc trăm trứng từng được coi là ma trâu thần rắn, nay có người thấy cần thay bằng cái gì đó “biện chứng” hơn, “duy vật” hơn. Và những điều khác nữa… Tuy nhiên, vì lo sợ cho sự an toàn của bản thân, họ đã im lặng. Trong hai năm 1993-1994 sang Việt Nam nghiên cứu trở lại, Taylor là cơ hội bằng vàng để đồng nghiệp Việt Nam chia sẻ với ông tâm tư của họ. Kết quả là một số ý tưởng của học giả Việt Nam chuyển sang cho Taylor để rồi được phát biểu trên đất Mỹ. Cố nhiên, người ta chỉ chờ có thế để tung hô như một sự “phát hiện, sáng tạo”! Ông Nguyên Ngọc đã đánh giá rất đúng: “và có lẽ cả ở sự gắn bó, gần gũi kỳ lạ của ông với giới nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam, những chuyển động bên trong nghiên cứu ấy.” Đúng là sự “gắn bó” một đồng một cốt! Những lời như thế không thể là tự có của một nhà văn mà nó tới tai ông từ những “sử gia”. Hãy nghe Giáo sư Lê Văn Lan trong Lời giới thiệu cuốn Nguồn gốc người Việt người Mường của Tạ Đức:
“Tuy nhiên thật mừng là khá lâu rồi, bây giờ mới thấy có người đủ sức, đặc biệt là đủ gan để làm những chuyện này.
Cái gan đầu tiên, chính là việc không những chê, mà còn gỡ bỏ, điều mà tác giả gọi là “vòng kim cô” của những học thuyết một thời chính thống về sự phát triển bản địa tuyệt đối (liên quan đến các vấn đề tự lực tự cường, độc lập tự chủ…) của dân tộc, về sự coi nhẹ, thậm chí phủ nhận, các tác động và ảnh hưởng quyết định ngoại lai, đặc biệt là các cuộc và kiểu thiên di (liên quan đến sự nghiệp chống ngoại xâm, chống can thiệp từ bên ngoài…) của lịch sử”.
  “Nhưng rồi qua từng trang, từng mục, đọc rất hấp dẫn, thấy tác giả, khi nói ra những điều này, là nói với cái gan dạ từ một tinh thần khoa học thực sự cầu thị, từ một ý chí và tấm lòng kiên định, nhiệt thành vì sự phát triển-đổi mới của khoa học lịch sử; và nhất là cái hệ thống mà Tạ Đức xây dựng nên ở đây, là sản phẩm của một qúa trình tìm tòi, khám phá, đặc biệt là tổng hợp, công phu, rộng lớn và có phương pháp; đồng thời thăng (cân) bằng rành rẽ trên nền của bước phát triển khoa học và công nghệ thông tin hiện đại.”

Xu hướng đòi viết lại lịch sử Việt Nam là có thực. Nhưng một nguyên nhân quan trọng là nhà chép sử của chúng ta, do tri thức lịch sử hạn hẹp, lại thiếu một bản lĩnh văn hóa nên không thấu hiểu bản chất của một dân tộc có lịch sử lâu dài, thống nhất. Họ trông gà hóa cuốc rồi phủ định giá trị sâu bền nhất của lịch sử dân tộc. Do những áp lực nội tại, họ không dám nói thẳng suy nghĩ của mình nhưng đã truyền cho những người như Taylor. Với thói quen nô lệ vọng ngoại, người ta nống một cậu học trò làm thầy, đem đặt lên bệ thờ để mượn tay thầy đập phá bát hương trong ngôi đền thiêng dân tộc! Tác hại nhỡn tiền là sinh ra đám con nhang đệ tử trẻ người non dạ, ăn theo nói leo kiểu  Tiến sĩ Trần Trọng Dương cùng luận thuyết “Kinh Dương Vương là sản phẩm của văn hóa Tàu”! Điều xót xa là, trong khi cay độc vùi dập dân tộc Việt thì ông K.W.Taylor không ngờ rằng, 40.000 năm trước, có một dòng con cháu người Việt từ Đông Á, qua Trung Á tới Nam Âu. Tại đây, họ lai giống với người Europid vừa từ Trung Đông lên, sinh ra người Eurasian da sậm màu, là tổ tiên của người châu Âu. Vì vậy, trong dòng máu Anglo Xason ông Taylor đang mang, chắc là có một phần máu Việt. Ngay cả những từ thông dụng nhất ông dùng như Water, sand, people cũng là từ gốc Việt: nước, sạn, bầu bí! Sau này, nếu con cháu ông K.W.Taylor có tâm và hiểu biết, hẳn sẽ hành hương về Việt Nam, tới Núi Đọ bái kính nơi phát tích của tổ tiên!
Cuốn sách của Taylor in năm 2003 nay đã lạc hậu, không nói làm gì. Chỉ nực cười là, cho tới năm 2015 này, thông tin về cội nguồn đích thực của tộc Việt tràn trên mạng thì xảy ra chuyện, tại một nơi rất sang trọng, có những người rất quan trọng, làm cái việc rất long trọng là trao vương miện cho cái xác chết!

III. Kết luận                       
Suốt thế kỷ XX, bằng tất cả những phương cách sáng tạo được như khảo cổ học, cổ nhân học, văn hóa học, ngôn ngữ so sánh… khoa học cũng không thể giải quyết vấn đề căn cốt nhất: Tổ tiên người Việt là ai? Từ đâu ra? Trải quá trình lịch sử như thế nào để có diện mạo như hôm nay? Vì vậy, cuốn sử Việt Nam có nhiều bất cập. Viết lại lịch sử là nhu cầu bức thiết. Từ thập niên 1970 xuất hiện những nhà duy sử với ý tưởng xóa bỏ truyền thuyết huyền thoại để xác lập một lịch sử duy vật như bản thân nó có, dựa vào cổ thư Trung Hoa cùng những tài liệu khảo cổ thời Đông Sơn. Là người nắm bắt ý hướng này, K.W. Taylor đã đẩy tới cực đoan, biến tác phẩm của ông trở thành tài liệu không chỉ xuyên tạc, bóp méo lịch sử Việt Nam mà còn xúc phạm dân tộc Việt. Có những người ủng hộ “sử gia” này. Nhưng theo tôi, đại đa số người dân Việt Nam không đồng tình. Dù không giải thích được nhưng trong tâm cảm, người Việt vẫn ngưỡng vọng về Kinh Dương Vương, về Lạc Long Quân, về nơi phát tích của tổ tiên Núi Thái Sông Nguồn… Những khám phá của công nghệ di truyền thập niên đầu thế kỷ chứng tỏ niềm tin dai dẳng của người Việt là đúng. Và cuốn sử Việt Nam đang được viết lại. Nhưng không phải như K.W.Taylor và môn đồ của ông tưởng tượng. Không chỉ là lịch sử 4000 năm mà tộc Việt có tới 70.000 năm sống, sinh ra toàn bộ dân cư châu Á và sáng tạo nền văn hóa phương Đông rực rỡ.
                                                                              Sài Gòn, Hè 2015

Tài liệu tham khảo:
1 Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB DH&THCN, H. 1983)
2. J.Y. Chu et al: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 N. 95 tr. 11763-11768.
3. S.W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. (Genetic 1992 N.130 Tr.139-45)
4. Hà Văn Thùy. Tiến trình lịch sử văn hóa Việt.
5. Hà Văn Thùy. Viết lại lịch sử Trung Hoa
6. W. G. Solheim II. Ph. D: New light on Forgotten Past. National
Geographic Vol 1339 n.3 Mar. 1971. 

7. Stephen Oppenheimer: Eden in the East : the Drowned Continent of Southeast Asia - Phoenix London 1998

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

015010 NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT NGƯỜI MƯỜNG

015010      “NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT-NGƯỜI MƯỜNG”* 

VÀ THỰC TRẠNG HỌC THUẬT VIỆT NAM


Hà Văn Thùy


Nhà nghiên cứu Tạ Đức
     Sau khi nắm quyền, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chủ trương xây dựng nền khoa học xã hội và nhân văn của quốc gia độc lập với phương châm Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Là những người Mác xít, từ các lãnh tụ như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng tới các học giả của nhà nước đều theo quan niệm duy vật lịch sử. Trụ cột của quan niệm này là vai trò quyết định của yếu tố nội tại đến sự phát triển của dân tộc: văn hóa Việt Nam tuy có tiếp thu nhân tố bên ngoài nhưng về bản chất vẫn là văn hóa bản địa, do chính người dân từng sống trên đất Việt Nam trong quá khứ làm nên. Mặt khác, cũng do trải nghiệm những tiêu cực của thuyết thiên di-du nhập, những người đề xướng nền học thuật mới dị ứng gay gắt chủ trương này, coi đó là sản phẩm của thực dân, tư sản phản động. Vào thập niên 1970, với ý chí chính trị của cả hệ thống, nhà nước Việt Nam đã tập trung khám phá văn hóa Đông Sơn để từ đó khẳng định thời Hùng vương trong lịch sử dân tộc. Từ sau toàn thắng năm 1975, khi tổng kết thành tựu xây dựng đất nước, các báo cáo chính thức đều khẳng định hai thành tựu trên của học thuật xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, từ thập niên 90 thế kỷ trước, xuất hiện nhiều ý kiến của học giả trong và ngoài nước phản biện những đánh giá trên, phủ nhận thời Hùng Vương trong lịch sử Việt và cho rằng, học thuật Việt Nam tuân theo mục tiêu chính trị, mang tinh thần chủ nghĩa dân tộc cực đoan, duy ý chí. Vấn đề cần làm hôm nay là nghiêm túc đánh giá một cách khách quan, khoa học xem quan niệm phát triển nội tại của lịch sử văn hóa Việt Nam có phù hợp với thực tế? Muốn làm việc này, điều tiên quyết là phải xác định xem dân cư trên đất Việt Nam thời tiền sử là người bản địa hay nhập cư? Chứng cứ trực tiếp và vững chắc nhất để xác định chuyện này là khảo di cốt người cổ từng sống trên đất Việt Nam. Năm 1983, từ giám định một cách hệ thống và chính xác sưu tập 38 cốt sọ thời Đá Mới và 32 cốt sọ thời Đồng-Sắt được tìm thấy ở Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa trong sách Nhân Chủng Học Đông Nam Á (1) nhận định: - Vào thời đại Đá Mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu. - Sang thời Đồng- Sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân ở Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư, hoặc do đồng hóa (trang 106) Như vậy, dân cư trên đất Việt Nam suốt thời Đồ Đá, từ Con Moong, Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn tới Phùng Nguyên là người bản địa, loại hình Australoid, thống nhất và liên tục. Cũng do dân cư bản địa, thống nhất và liên tục cho nên các văn hóa trên đất Việt Nam cũng là văn hóa bản địa. Từ đó, đưa tới kết luận: cả dân cư và văn hóa trên đất Việt từ xa xưa tới cuối thời Phùng Nguyên là dân cư và văn hóa bản địa! Giờ ta bàn tới nhận định thứ hai: sang thời Đồng-Sắt, người Mongoloid là thành phần chủ thể. Điều này là rõ ràng qua các cốt sọ. Nhưng vấn đề là, họ từ đâu tới và do nhập cư hay do đồng hóa? Đó là câu hỏi mà khoa học thế kỷ XX không có câu trả lời! May mắn là sang thế kỷ này, với hàng loạt nghiên cứu di truyền học được công bố, cho thấy: người Khôn ngoan Homo sapiens từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70000 năm trước. Sau khi gặp gỡ, hòa huyết tăng nhân số, họ đã tỏa ra khắp châu Á và từ 40.000 năm trước đã chiếm lĩnh đất Trung Hoa. Bằng khảo cứu của mình, được công bố trong ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn Học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (NXB Văn Học, 2011) và hàng trăm bài viết, chúng tôi đã chứng minh rằng, 5000 năm TCN, tại trung lưu Hoàng Hà, người Việt (Australoid) lai giống với người Mông Cổ (North Mongoloid) sinh ra người Việt chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều. Khoảng giữa thiên niên kỷ II TCN, người Việt vùng Núi Thái-Sông Nguồn di cư về Việt Nam, đem nguồn gen Mongoloid hòa huyết với người Phùng Nguyên mã di truyền Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam, chủ nhân văn hóa Đông Sơn và là tổ tiên người Việt Nam hiện đại. (2) Để trả lời câu hỏi: dân cư Đông Sơn hình thành do nhập cư hay do đồng hóa, ta xét những sự kiện sau: Chứng cứ khảo cổ học cho thấy, quá trình hình thành chủng Mongoloid phương Nam trên đất Việt kéo dài khoảng nửa thiên niên kỷ, hoàn tất vào khoảng 2000 năm TCN. Dấu vết của việc chung sống, hòa huyết còn để lại rất rõ trong văn hóa Hạ Long, đặc biệt ở di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình với ngôi mộ có 30 thi hài người Australoid và Mongoloid được chôn chung. Điều này chứng tỏ, không có sự xâm nhập lớn với mục đích tiêu diệt hay trục xuất người bản địa để độc chiếm địa bàn mà là sự chung sống hòa bình. Từ đó, cuộc hòa huyết trong thời gian dài dẫn tới chuyển hóa dân cư về di truyền học. Một chứng cứ khác cũng xác nhận điều này. Đó là nghiên cứu của S. W. Ballinger và đồng nghiệp (3) cho thấy, Người Việt Nam hiện đại có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các dân cư châu Á. Chỉ số đa dạng di truyền là một phẩm tính của sinh vật. Càng gần tổ tiên, chỉ số đa dạng di truyền càng cao. Việc người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á nói lên rằng, người Việt Nam gần tổ tiên hơn bất cứ dân tộc châu Á nào. Điều này có nghĩa, Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc châu Á. Một hệ quả khác là nó chứng tỏ không hề có cuộc nhập cư lớn, ồ ạt người từ phương Bắc để thay thế cư dân Phùng Nguyên. Bởi lẽ, nếu sự nhập cư mang tính thay thế xảy ra thì người Việt Nam hiện nay, là con cháu những người nhập cư, buộc phải có chỉ số đa dạng di truyền thấp hơn người Trung Quốc hiện đại! Phát hiện của Ballinger là chứng cứ cho thấy: người từ Trung Quốc xuống với số lượng đủ để chuyển hóa dân cư Phùng Nguyên sang Mongoloid phương Nam nhưng không lớn tới mức làm giảm chỉ số đa dạng di truyền dân cư Đông Sơn xuống thấp hơn hay bằng dân cư Trung Quốc. Điều này có nghĩa là, người Phùng Nguyên không bị thay thế bằng người nhập cư phương Bắc! Từ phân tích trên, ta có quyền khẳng định: dân cư Đông Sơn vẫn là người bản địa! Bây giờ xét về mặt văn hóa: văn hóa Đông Sơn là văn hóa bản địa hay du nhập? Đây là điều phức tạp vì việc giám định niên đại các nền văn hóa còn bị tranh cãi. Nhưng ta biết rằng, người Hòa Bình đã đưa công cụ đá mới lên văn hóa Ngưỡng Thiều. Khảo cổ học cho biết, việc nấu đồng xuất hiện ở Phùng Nguyên trước lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Phần lớn hiện vật Đông Sơn như rìu, búa, thạp đồng, đồ gốm… là sự tiếp tục các motip văn hóa Phùng Nguyên. Như vậy, văn hóa Đông sơn cũng là văn hóa bản địa. Khi con người chủ thể là người bản địa thì đương nhiên văn hóa do họ tạo dựng cũng là văn hóa bản địa. Người nhập cư phương Bắc chắc chắn đã góp sự khôn ngoan của mình vào sự khôn ngoan chung của người Việt Nam. Có thể thấy điều này qua Ngọc phả Hùng Vương: “Những người từ biển vào, họ rất hiền lành, giúp dân nhiều việc tốt. Dân đã chọn người giỏi nhất trong số họ làm vua!” Đó là sự thật. Nhưng cho rằng người phương Bắc nhập cảng văn hóa tạo nên thời Đông Sơn là không có cơ sở! Như vậy có thể kết luận: suốt thời tiền sử, từ thời Đồ Đá tới thời Kim khí, con người và văn hóa trên đất Việt Nam đều là bản địa. Kết luận trên cho thấy, dù bị gọi là “phục vụ chính trị”, mang tinh thần “chủ nghĩa dân tộc” hay “duy ý chí” thì việc xác định cái nền bản địa của con người và văn hóa Việt Nam là hoàn toàn chính xác. Và đó chính là thành tựu cơ bản của khoa học nhân văn Việt Nam thế kỷ XX. Tới đây, một câu hỏi cần được trả lời một cách công bằng và khoa học: vì sao những người chủ trương phát triển nội tại đã đúng? Nếu cho rằng do họ mù quáng theo thuyết macxít nên may mắn đúng thì quá đơn giản! Theo chúng tôi, chính bởi lẽ họ là người Việt Nam yêu nước, có tư duy độc lập. Từ trong tâm cảm họ đã nhận ra người Việt có một nguồn cội sâu xa và văn hóa Việt từ nguồn cội ấy phát triển lên. Từ nhận thức như thế, chúng tôi thật ngạc nhiên khi đọc Nguồn Gốc Người Việt-Người Mường của ông Tạ Đức. Trong đó, theo quan niệm thiên di-du nhập, tiếp tục những sai lầm của Đào Duy Anh, Bình Nguyên Lộc, tác giả cho rằng, cả con người cùng văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn đều là sản phẩm nhập cảng từ Trung Quốc. Về chuyện này chúng tôi đã phản bác bằng bài viết Một Kiến Giải Sai Về Nguồn Gốc Dân Tộc. Thiết tưởng không còn gì để nói nếu trong sách không in kèm hai bài viết, một là Lời Giới Thiệu của Giáo sư Sử học Lê Văn Lan và Nhận Xét 2 của Tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám dốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á. Sau khi đánh giá cao khối tư liệu đồ sộ của cuốn sách “hứa hẹn sẽ khuấy lên những cuộc tranh cãi, nhằm góp phần đánh thức tình trạng như có vẻ ly bì, mệt mỏi, bế tắc của nền học thuật nhân văn nước nhà,” phải chăng vì không thể phân biệt chân ngụy, vị tiến sĩ, như người khách qua đường, vô tư bỏ đi mà không hề bộc lộ chính kiến?! Đáng chú ý là bài viết của sử gia họ Lê: “Khi trao tay bản thảo cuốn sách này, Tạ Đức đã hẹn và tôi đã nhận: đọc xong trong một tuần! Nhưng một tuần, rồi gấp đôi thế, tôi vẫn chưa thể đọc xong. Bởi quá nhiều vấn đề. Lại toàn là những “chuyện tày đình” cả! Tuy nhiên thật mừng là khá lâu rồi, bây giờ mới thấy có người đủ sức, đặc biệt là đủ gan để làm những chuyện này. Cái gan đầu tiên, chính là việc không những chê, mà còn gỡ bỏ, điều mà tác giả gọi là “vòng kim cô” của những học thuyết một thời chính thống về sự phát triển bản địa tuyệt đối (liên quan đến các vấn đề tự lực tự cường, độc lập tự chủ…) của dân tộc, về sự coi nhẹ, thậm chí phủ nhận, các tác động và ảnh hưởng quyết định ngoại lai, đặc biệt là các cuộc và kiểu thiên di (liên quan đến sự nghiệp chống ngoại xâm, chống can thiệp từ bên ngoài…) của lịch sử. Tôi – từ cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ trước, khi đi khai quật lần thứ nhất Phùng Nguyên, tham gia phát hiện Núi Đọ, sớm tìm kiếm thêm được nhiều trống đồng v.v… cũng ở trong số những người đầu tiên đội và truyền những “vòng kim cô” như thế, đồng thời, cũng nhiều lần giật mình nhận ra là sự thể là kẻ “sống sót” được từ ấy cho tới tận bây giờ. Vì thế, mấy tuần liền đọc bản thảo cuốn sách này, thấy tác giả nói khơi khơi về nguồn gốc phương Bắc của Phùng Nguyên, Đông Sơn; về các cuộc di dư từ đủ các miền phương Bắc để không những thành ra người Việt, người Mường mà còn thành ra cả các đấng bậc từ Hùng Vương đến nhà Lý, nhà Trần, nhà Nguyễn v.v… thì đầu tiên không khỏi thấy lạ và ái ngại nữa! Nhưng rồi qua từng trang, từng mục, đọc rất hấp dẫn, thấy tác giả, khi nói ra những điều này, là nói với cái gan dạ từ một tinh thần khoa học thực sự cầu thị, từ một ý chí và tấm lòng kiên định, nhiệt thành vì sự phát triển-đổi mới của khoa học lịch sử; và nhất là cái hệ thống mà Tạ Đức xây dựng nên ở đây, là sản phẩm của một qúa trình tìm tòi, khám phá, đặc biệt là tổng hợp, công phu, rộng lớn và có phương pháp; đồng thời thăng (cân) bằng rành rẽ trên nền của bước phát triển khoa học và công nghệ thông tin hiện đại. Tôi thấy - như tác giả đã tâm sự - vấn đề chỉ còn là xem xét, coi những luận cứ và bằng chứng được trình bày ở sách này có đủ độ xác tín, đã đủ sức thuyết phục hay chưa. Vì thế cuốn sách này cần được đọc kỹ. Nó rất dày, với nhiều thông tin và vấn đề, nhưng dễ đọc, thậm chí còn lôi cuốn người ta chăm chú đọc. Và rồi: nghĩ. Hà Nội, đầu Hạ, 2014. Nhà sử học Lê Văn Lan.” Đọc bài viết, trong đầu tôi vẩn vơ suy nghĩ: Phải chăng cuốn sách của ông Tạ Đức có sức mạnh ma mị khiến cho nhà sử học lão thành bỗng chốc tỉnh ngộ, ly khai với lý tưởng từng đeo đuổi gần suốt cuộc đời?! Không phải vậy. Có lẽ, vị sử gia già lão, nói như Tiến sĩ Nguyễn Việt, đang trong “tình trạng như có vẻ ly bì, mệt mỏi, bế tắc trước nền học thuật nhân văn nước nhà”; nghĩa là đang trong trạng huống hoang mang, mất lòng tin thì cuốn sách là giọt nước tràn ly, khiến ông, một cách vô thức, bước qua lời nguyền, dứt bỏ “vòng kim cô”, đã từng một thời là vòng nguyệt quế mà ông góp sức làm nên! Nhưng thật đáng tiếc, hành động này đã biến sử gia thành kẻ đào ngũ trong ngày chiến thắng! Không chỉ hôm nay mà mười năm rồi, khoa học nhân loại đưa ra hàng tấn chứng cứ khẳng định sự đúng đắn của thuyết phát triển nội tại: Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc châu Á và cũng là cái nôi của văn hóa châu Á! Một câu hỏi được đặt ra: tại sao những chuyện động trời như vậy trong chính lĩnh vực chuyên môn của mình mà Giáo sư không biết?! Người xưa thường nói: giấy rách giữ lấy lề! Thảm thương thay, cuốn sách Khoa Học Nhân Văn Việt Nam đã rách tả tơi mà bây giờ những vị trụ cột của nó lại xé bỏ luôn cả cái lề! Điều đáng mừng là, không lạc điệu như sử gia, hàng vạn trí thức bình dân Việt đã biết về cội nguồn đích thực của con người cùng văn hóa Việt, dù rằng tri thức mà họ thâu lượm được hầu như chỉ từ “lề trái!” Họ kỳ vọng có một ngày, những người như Giáo sư đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Dù cho ai nói ngả nói nghiêng thì chúng tôi vẫn kiên trì quan điểm về sự phát triển nội tại của lịch sử, văn hóa Việt Nam! Thực tế đã chứng tỏ rằng đó là điều đúng đắn. Mặc dù có những sai lầm không tránh khỏi nhưng việc đề xuất và kiên trì chủ trương phát triển nội tại là thành tựu cơ bản của khoa học nhân văn Việt Nam. Nó là hòn đá tảng để chúng ta xây dựng nền khoa học nhân văn Việt Nam thời đại mới!” Điều mơ ước đó không xảy ra. Tiếc cho sử gia! Cũng tiếc cho tác giả Tạ Đức. Là người có lẽ có tài và có gan muốn tạo lập lâu đài tri thức hoành tráng in dấu ấn của riêng mình nhưng do sai ngay từ khâu thiết kế nên công trình thế kỷ chỉ còn là đống vụn tư liệu! Một cuốn sách lạc đường, đẩy học thuật Việt thụt lùi hơn nửa thế kỷ cùng những Giáo sư, Tiến sĩ mất phương hướng, bộc lộ thảm trạng của khoa học nhân văn Việt Nam. Bên trong, không đủ tâm và trí để nói với nhân dân về cội nguồn cùng văn hóa đích thực của dân tộc; thậm chí vẫn ca những bài ca mốc meo về “ngã tư đường giao lưu quốc tế,” về “tiếp biến văn hóa,” về “tiếng Việt mượn 70% từ ngôn ngữ trung Hoa”… Bên ngoài, nó câm nín trước những đòn tấn công hiểm ác không chỉ xuyên tạc chính nghĩa dân tộc trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà cả những mưu toan nhân danh khoa học phủ định tới cỗi rễ dân tộc Việt! (K. Taylor: Tôi đã bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào? L. Kelley: “Hồng Bàng thị truyện” như một truyền thống được kiến tạo của người Việt Nam thời trung đại.) Một nền khoa học nhân văn như thế thực sự là thảm họa của dân tộc!

 * Tạ Đức. Nguồn gốc người Việt - người Mường. NXB Trí thức, 2013. Tài liệu tham khảo: 1. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCH, 1983 2. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. NXB Văn học, 2007 3. S.W. Ballinger et al. Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992, N.130 ps.139-45).

015006 GÓP MỘT GÓC NHÌN VỂ LỊCH SỬ NHẬT BẢN

0150056   GÓP MỘT CÁCH NHÌN VỀ LỊCH SỬ NHẬT BẢN

Lịch sử Nhật Bản là cuộc tranh chấp dai dẳng giữa những quan niệm trái ngược nhau về nguồn gốc người Nhật. Trùm lên những tranh chấp ấy là tranh chấp khác, khốc liệt hơn giữa người Triều Tiên và người Nhật Bản. Dựa vào sự giống nhau nhất định về di truyền và ngôn ngữ, người Triều Tiên cho rằng, tổ tiên họ đã từng thống trị Nhật Bản còn người Nhật lại nói, tổ tiên họ từng chiếm đóng Triều Tiên rồi bắt nô lệ Triều Tiên về nước. Dựa vào truyền thuyết hoang tưởng là con cháu của Nữ thần Mặt trời, người Nhật, với lòng tự tôn dân tộc đã gây bao đau đớn không chỉ cho người Triều Tiên mà còn cho nhiều dân tộc Đông Á khác. Ngày nay, Nhật Bản và Hàn Quốc là hai động lực kinh tế ở khu vực nên mối quan hệ giữa hai cường quốc này có tác động lớn tới sự ổn định của châu Á. Vì vậy, việc minh định nguồn gốc của người Nhật Bản có ý nghĩa thời sự đặc biệt. 1. Toàn cảnh lịch sử, ngôn ngữ, di truyền người Nhật Bản Từ cổ sử Trung Hoa, từ biên niên sử Nhật Bản, Triều Tiên, từ khảo cổ học, ngôn ngữ học và những nghiên cứu di truyền học mới nhất, bức tranh toàn cảnh lịch sử Nhật Bản được mô tả như sau: Vào thời Băng hà, mực nước biển thấp hơn hôm nay khoảng hơn 100 met. Có những cầu bằng đất nối các đảo của Nhật Bản với nhau và với đất liền, cách 110 dặm với Nam Hàn, 190 dặm với Nga và 480 dặm với Trung Quốc. Động vật và con người đã theo những cầu đó tới Nhật Bản. Khoảng 30.000 năm trước, Nhật Bản đã có người sinh sống. Khoảng 13.000 năm trước, băng tan, nước biển dâng bằng mức ngày nay. Các hòn đảo Nhật Bản cô lập với nhau và tách khỏi đất liền châu Á. Nhưng cũng do biến động này mà điều kiện sống ở Nhật trở nên thuận lợi: khí hậu ấm áp hơn, lượng mưa hàng năm lớn, tập trung vào mùa hè khiến những cánh rừng mọc lên tươi tốt, cho nhiều trái cây như hồ đào, hạt dẻ và sồi là nguồn thức ăn phong phú, được dự trữ qua mùa đông. Vây quanh những hòn đảo là biển nông, nhiều tôm cá, sò hến. Các nhà khảo cổ phát hiện tại di chỉ Jomon có tuổi 12.700 năm, trên bờ phía bắc đảo Kyushu ở cực nam Nhật Bản gốm văn thừng, được gọi là gốm Jomon. Và Jomon cũng được dùng đặt cho người Nhật cổ. Khảo sát hàng trăm di chỉ của người Jomon, các nhà khảo cổ học cho rằng họ là những người săn-hái và sống định cư, đánh cá bằng lưới, bắn thú bằng cung tên và đi săn bằng chó. Người ta cũng xác định được 64 loại thực vật ăn được trong rác của người Jomon. Trong số thức ăn này không có sự phân biệt rõ ràng giữa cây trồng và cây hoang dại. Điều này cho thấy ở người Jomon chưa biểu hiện rõ nét khả năng thuần dưỡng cây trồng. Khoảng 1000 TCN tới giai đoạn kết thúc của thời kỳ Jomon, vài hạt gạo, lúa mạch và cây kê là những ngũ cốc chủ yếu của Đông Á, bắt đầu xuất hiện. Những manh mối lờ mờ này có vẻ nói rằng người Jomon đang bắt đầu lối canh tác nông nghiệp trồng rẫy, nhưng rõ ràng còn làm một cách ngẫu hứng nên chỉ đóng góp phụ trợ vào khẩu phần của họ. Người ta đoán rằng, vào giai đoạn cao nhất, nhân số Jomon Nhật Bản có khoảng 250.000 người. Đó là một vũ trụ bảo thủ thu nhỏ mà sự thay đổi qua hơn 10, 000 năm ít đến ngạc nhiên. Khoảng thế kỷ IV TCN, một sự kiện quan trọng xảy ra trên đất Nhật, đó là việc người từ Triều Tiên tới, mang theo kiểu sống mới xuất hiện trên bờ biển phía bắc đảo Kyushu ngang qua eo biển Nam Hàn. Lần đầu tiên thấy ở Nhật Bản những công cụ kim loại, đồ sắt, và nông nghiệp qui mô lớn. Đó là nông nghiệp với những ruộng lúa được tưới nước, những kênh đào, đập nước, bờ đê, thóc lúa và những phần còn lại của lúa gạo được phát lộ ra khi đào khảo cổ học. Những nhà khảo cổ học gọi cách sống mới là Yayoi, sau khi một khu của Tokyo vào năm 1884 phát hiện được đồ gốm đặc trưng đầu tiên. Không giống đồ gốm Jomon, đồ gốm Yayoi rất giống gốm Hàn Quốc cùng thời về hình dạng. Nhiều yếu tố khác của văn hóa Yayoi mới không thể lầm lẫn là từ Triều Tiên và trước đó từ nước ngoài đến với Nhật Bản, bao gồm những hiện vật đồng đỏ, đồ dệt, những hạt thủy tinh, và những kiểu công cụ và nhà cửa. Trong khi lúa gạo là cây trồng quan trọng nhất, nông dân Yayoi giới thiệu 27 vật mới tới Nhật Bản và lợn được nhập tịch. Họ có thể đã canh tác hai vụ, với những thửa ruộng được tưới để trồng lúa trong mùa hè, rồi rút kiệt nước để trồng cây kê, lúa mạch, và lúa mì mùa đông. Tất yếu, hệ thống nông nghiệp thâm canh hiệu quả cao này thúc đẩy sự bùng nổ dân cư tức thời ở Kyushu. Vài thế kỷ sau thấy xuất hiện lần đầu tiên dấu hiệu của sự phân tầng xã hội, thể hiện đặc biệt rõ trong những nghĩa địa. Sau khoảng 100 TCN, những phần đặc biệt của nhiều nghĩa địa được giành riêng cho những mộ của lớp quý tộc, với hàng xa xỉ được nhập khẩu từ Trung Quốc, như ngọc bích và những gương đồng đỏ đẹp. Sự bùng nổ dân cư Yayoi xảy ra, và những những miền đồng bằng thích hợp cho trồng lúa được mở rộng. Bằng chứng khảo cổ học gợi ý rằng chiến tranh trở nên ngày càng thường xuyên: sự sản xuất hàng loạt những đầu mũi tên, những hào phòng thủ bao vây những làng xóm, và những bộ xương chôn dưới đất bị tên xuyên thủng. Những dấu vết như vậy của chiến tranh trong xã hội Yayoi Nhật được chứng thực sớm nhất trong những cuốn sử biên niên Trung Hoa, ở đó mô tả đất của Wa (người Nhật) và trăm đơn vị chính trị nhỏ của nó đấu tranh lẫn nhau. Trong thời kỳ từ 300 tới 700 năm sau CN, cả khảo cổ học lẫn những ghi chép mơ hồ trong sử biên niên sau đó bộc lộ hình ảnh lờ mờ của một Nhật Bản hợp nhất về chính trị. Trước thế kỷ III, những mộ quý tộc còn nhỏ và thể hiện nhiều kiểu thức mang tính đa dạng khu vực. Bắt đầu thế kỷ III, ngày càng nhiều những mộ đất khổng lồ gọi là kofun, trong hình dạng của những ổ khóa (keyholes), được xây dựng khắp vùng cựu Yayoi từ Kyushu đến Bắc Honshu. Kofun có tới 1. 500 feet dài (450m) và hơn 100 feet (10m)cao, làm cho chúng trở thành những mộ đất có lẽ lớn nhất trên thế giới. Số lượng vĩ đại lao động đã được huy động để xây dựng chúng và sự giống nhau về kiểu dáng của chúng trên khắp Nhật Bản ngụ ý rằng có những người cai trị hùng mạnh đã huy động được một lực lượng lao động to lớn, cũng có nghĩa có chính trị hợp nhất. Những kofun đã được khai quật chứa đựng hàng hóa được chôn cất lãng phí, nhưng những cái lớn nhất còn chưa được đào bởi vì chúng được cho là chứa đựng những tổ tiên của nhà vua Nhật. Bằng chứng rõ ràng của sự tập trung chính trị mà kofun cung cấp, củng cố những tài liệu về những hoàng đế Nhật thời kofun được viết nhiều năm sau đó bằng tiếng Nhật và những sử biên niên Triều Tiên. Cuối cùng, với sự hoàn thành sử biên niên đầu tiên vào năm 712 đã đưa Nhật Bản vào trong ánh sáng đầy đủ của lịch sử. Kể từ 712, những người đang sống trên đất Nhật Bản hiển nhiên là người Nhật, và ngôn ngữ của họ (được gọi là tiếng Nhật cổ) cố nhiên là cội nguồn của tiếng Nhật hiện đại. Hoàng đế Akihito, người đang trị vì hôm nay, là con cháu trực hệ đời thứ 82 của vị Hoàng đế được chép trong cuốn sử đầu tiên viết năm 712 đó. Theo truyền thuyết, ông được coi là con cháu trực hệ đời thứ 125 của hoàng đế đầu tiên hoang đường Jimmu, người vĩ đại, chắt trai bốn đời của Nữ thần Mặt trời Amaterasu. Trong thời Yayoi, dân cư Nhật Bản gia tăng tới tới 70 lần, một tỷ lệ đáng kinh ngạc.(1) Khảo sát di cốt người Nhật, cổ nhân chủng học mô tả như sau: Xương cốt Jomon và Yayoi, có thể dễ phân biệt trên những chỉ số trung bình. Người Jomon có vẻ thấp hơn, với cánh tay tương đối dài, chân ngắn, hố mắt rộng hơn, mặt ngắn hơn và rộng hơn, và dấu vết hình thể ở mặt thể hiện rõ ràng hơn, với vòm mày, sống mũi và cầu mũi nổi lên. Người Yayoi trung bình cao hơn một tới hai inchs, hố mắt hẹp, mặt cao và hẹp, mũi và chân mày phẳng. Đặc biệt đáng chú ý: một số bộ xương thời kỳ Yayoi có vẻ ngoài còn tựa như Jomon, khơi gợi hy vọng một giả thuyết nào đó về sự chuyển tiếp Jomon -Yayoi. Bởi thời kỳ kofun, mọi bộ xương Nhật ngoại trừ của Ainu, tạo thành một nhóm tương đồng, giống với người Nhật và người Triều Tiên hiện đại. (1) Một điểm quan trọng của toàn cảnh Nhật Bản là những đặc điểm về ngôn ngữ: Mọi người đồng ý rằng tiếng Nhật không có quan hệ chặt chẽ với mọi ngôn ngữ khác trên thế giới. Đa số trường phái cho rằng nó là một thành viên cô lập của gia đình ngôn ngữ Altaic châu Á, có ngôn ngữ Turkic, Mông cổ, và Tungusic. Tiếng Triều Tiên thường cũng được xem xét như là một thành viên cô lập của gia đình này, và trong gia đình, tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên có thể gần gũi nhau hơn so với những ngôn ngữ Altaic khác. Tuy nhiên, những sự giống nhau giữa tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên được thể hiện bởi những đặc tính văn phạm chung và khoảng 15% những từ vựng cơ bản. Những nghiên cứu ngôn ngữ gợi ý rằng tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên phân ly ít nhất 4, 000 năm trước. Trong khi đó, ngôn ngữ Ainu, những nguồn gốc của nó gây ra sự nghi ngờ là có thể không có bất kỳ mối quan hệ đặc biệt nào tới tiếng Nhật. (1) Nguồn gốc người Nhật càng phức tạp thêm bởi sự có mặt ở Nhật Bản những người văn hóa săn hái gọi là Ainu. Giờ Ainu chỉ sống sót trên hòn đảo phía bắc của Hokkaido nhưng vài thế kỷ trước đây họ là một thành phần quan trọng của dân cư hòn đảo chính Honshu. Ainu khác với người Nhật ở chỗ nước da sáng và thân thể nhiều lông hơn. Họ thường được gọi với danh xưng “Ainu rậm lông”. Để giải quyết câu hỏi di truyền học, những nhà nghiên cứu khảo sát sự có mặt của một gen đặc biệt trên Y-chromosome, được gọi là Y Alu - phần tử đa hình thái (YAP). Nó phát triển trong một lịch sử tương đối gần đây và không phải mọi con đực đều có gen này. Michael Hammer tại Đại học Arizona ở Tucson và Satoshi Horai của Viện Di truyền học Quốc gia Nhật Bản nghiên cứu biến cố của gen YAP trong những dân cư châu Á. Họ thấy gen YAP không xuất hiện ở đàn ông Hàn Quốc hay Đài Loan. Nó chỉ có ở đàn ông Nhật và cũng chỉ phân bố tại khu vực đặc biệt. Gen YAP chỉ xuất hiện trong những người Ainu sống phía bắc và phía nam Nhật Bản. Ở trung tâm Nhật Bản, gen YAP không thấy. Điều này gợi ý rằng gen YAP đã phát triển trong số Jomon và được tiếp tục đi qua tới Yayoi do sự hòa trộn chủng tộc. Hammer và Horai nghiên cứu sự phân phối của gen khác trên Y-chromosome. Trong trường hợp thứ 2, những đàn ông ở Hàn Quốc sở hữu gen này và nó cũng thường được tìm thấy ở miền Trung Nhật Bản. Kết luận từ sự nghiên cứu là có một sự trộn của Yayoi và Jomon tại cực nam (Okinawa) và cực bắc nhưng không hề có tại trung tâm của Nhật Bản. Nei Masatoshi của Đại học bang Pennsylvania điều tra biến cố của gen này ở đàn ông châu Á. Ông tìm thấy một biến cố nhỏ trong số những người Mông Cổ nhưng có tới 50% ở đàn ông Tây Tạng. Điều này gợi ý rằng gen đã phát triển ở Bắc châu Á và được mang bởi những tổ tiên của người Nhật và Triều Tiên tới bán đảo Triều Tiên và bởi những tổ tiên của những người Tây Tạng từ Bắc châu Á đến cao nguyên Tây Tạng. Đây có lẽ là bằng chứng đầu tiên về những người Tây Tạng là những con cháu của những người di trú từ bắc châu Á. Bằng chứng xuất hiện chỉ báo rằng người Nhật phần lớn là những con cháu của Yayoi với sự pha trộn nào đó với Jomon ở cực bắc và cực nam. (2). II. Những quan niệm hiện hành Hiện có nhiều giả thuyết về nguồn gốc người Nhật. Dưới đây xin tóm lược những quan niệm đó. Giả thuyết thứ nhất: tự những người săn-hái Jomon dần dần tiến triển thành người Nhật hiện đại. Việc họ sống ổn định trong những ngôi làng suốt hàng nghìn năm, họ có thể đã thích ứng để chấp nhận nông nghiệp. Tại sự chuyển tiếp Yayoi, xã hội Jomon có lẽ không nhận được gì hơn những hạt giống lúa chịu lạnh và kinh nghiệm về sự tưới nước của Hàn Quốc, cho phép sản xuất nhiều thức ăn hơn và tăng nhân số. Lý thuyết này quyến rũ nhiều người Nhật hiện đại bởi vì nó giảm thiểu tối đa sự đóng góp không được chào đón gen Triều Tiên vào vốn gen Nhật trong khi vẽ ra chân dung người Nhật như tộc Nhật Bản thuần chủng ít ra từ 12, 000 năm qua. Giả thuyết thứ hai: cho rằng sự chuyển tiếp Yayoi thể hiện sự di cư hàng loạt của những người nhập cư từ Hàn Quốc, mang tiếng Triều Tiên, kinh nghiệm canh tác, văn hóa, cùng nguồn gen. Theo một ước lượng, Nhật Bản Yayoi nhận vài triệu người nhập cư từ Hàn Quốc, hoàn toàn chôn vùi đóng góp di truyền học của người Jomon (phỏng đoán có khoảng 75.000 người trước khi sự chuyển tiếp Yayoi). Như vậy, người Nhật hiện đại là con cháu của những người nhập cư Triều Tiên, những người phát triển nền văn hóa của mình trong 2.000 năm trở lại đây. Nhiều tác giả phương Tây và Hàn Quốc ủng hộ giả thuyết này. Giả thuyết thứ ba: chấp nhận bằng chứng sự nhập cư từ Hàn Quốc nhưng không phải là nhập cư hàng loạt. Thay vào đó, nông nghiệp hiệu quả cao có thể đã cho phép một lượng nông dân trồng lúa nhập cư khiêm nhường, sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn người săn hái Jomon và dần dần đông hơn họ. Cũng như giả thuyết thứ hai, thuyết này xem xét những người Nhật hiện đại chịu tác động yếu ớt từ người Triều Tiên nhưng miễn trừ sự nhập cư quy mô lớn. Ngoài ra còn 2 giả thuyết khác: Tự tôn về nòi giống của mình, người Nhật chịu một sức ép cho rằng, họ có văn hóa và bộ gen khác, nhận được từ người Ainu sống trên những hòn đảo cực bắc Hokkaido. Một thuyết khác cũng được sự ủng hộ rộng rãi là, người Nhật được thừa kế từ những người du cư, cuỡi ngựa từ châu Á, đi xuyên qua Hàn Quốc, nhưng không phải người Hàn Quốc, đã chiến thắng Nhật Bản ở thế kỷ IV TCN. III Quan niệm của chúng tôi 1. Về người Jomon Là bộ phận của địa văn hóa Á Đông nên sự xuất hiện tổ tiên người Nhật không thể tách khỏi quá trình hình thành dân cư Đông Á. Chúng tôi xin tóm lược quá trình này như sau: Người Khôn ngoan Homo sapiens gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid từ châu Phi theo bờ biển Nam Á tới Việt Nam 70.000 năm trước. Họ hòa huyết cho ra 4 chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Nhờ điều kiện sống thuận lợi, nhân số tăng nhanh, lan ra khắp lục địa Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, do khí hậu phía bắc ấm hơn, người từ Đông Dương đi lên khai phá đất Trung Quốc sau đó lên Siberia, rồi vượt eo Bering sang châu Mỹ.(3) Ở Trung Hoa, do sống phân tán trong những địa hình và khí hậu khác nhau, người Việt cổ phân ly thành hơn 20 nhóm địa phương, được lịch sử gọi là Bách Việt. Do Nhật Bản xa và lạnh nên khoảng 30.000 năm trước người Việt cổ mới đặt chân tới. Đó chính là người Jomon. Có thể từ đồng bằng Hainan land và Sunda land, theo những chiếc cầu bằng đất họ tới Nhật. Cũng có thể họ từ Trung Quốc tới qua đường Triều Tiên. Nhân đây cũng xin nói ít lời về gốm Jomon. Tác giả Jared Diamond cho rằng, do điều kiện sống thuận lợi nên người săn hái Jomon sống định cư tập trung và sáng tạo gốm văn thừng. Điều này nghe ra có vẻ có lý nhưng không thể không tính tới một sự thật: vì sao suốt 10.000 năm tồn tại mà gốm Jomon hầu như không thay đổi? Nếu thực sự là người phát minh ra gốm văn thừng thì chắc chắn rằng với cảm hứng sáng tạo sẵn có, người Jomon sẽ sáng tạo nhiều kiểu gốm khác, như người ở đất liền đã làm được. Điều này không xảy ra chứng tỏ người Jomon thụ động tiếp nhận gốm văn thừng từ người khác. Vì vậy, chúng tôi nghiêng về phía những tác giả khác, đặc biệt là Stephen Oppenheimer khi ông cho rằng, gốm Jomon là do người Hòa Bình đưa tới trước khi nước dâng (4) 2. Về người Yayoi. Trong 10.000 năm tồn tại, do điều kiện cô lập nên về sinh học, người Jomon hầu như không có biến đổi. Trong khi đó, tại đất liền, có những biến đổi lớn, không chỉ về phương thức sống mà còn về di truyền. Khoảng 5000 năm TCN, tại trung lưu Hoàng Hà, người Mogoloid phương Bắc tiếp xúc và hòa huyết với người Bách Việt Australoid sinh ra chủng mới là Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ nhân văn hóa Yangshao (Ngưỡng Thiều) (5). Khoảng 2600 TCN, cuộc xâm lăng lớn của người Mongoloid phương Bắc diễn ra, một bộ phận người Bách Việt dùng thuyền di tản khỏi lưu vực Hoàng Hà, theo gió Bấc xuống Việt Nam và các hải đảo Đông Nam Á. Người Mongolod phương Nam trong dòng di tản hòa huyết với người bản địa, sinh ra những người Mongoloid phương Nam mới. Đây là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Cho tới 2000 năm TCN, đại đa số dân cư Đông Nam Á chuyển thành Mongoloid phương Nam (6). Sự kiện này cũng diễn ra trên đất Trung Hoa, cho tới 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư trên đất Trung Hoa là Mongoloid phương Nam. Trên đất Triều Tiên, tình hình cũng diễn ra tương tự. Thế kỷ IV TCN, nhà Chu tan rã, Trung Quốc lâm vào thời Chiến Quốc, xảy ra những cuộc chiến tranh liên miên giữa những thuộc quốc của nhà Chu và những quốc gia Bách Việt còn độc lập. Chiến tranh khốc liệt đẩy một bộ phận Bách Việt mà sử Trung Hoa gọi là Đông Di lánh nạn sang bán đảo Triều Tiên rồi từ đó họ tràn tới Nhật Bản. Cuộc di tản như dòng nước lũ cuốn theo những nông dân nghèo Triều Tiên đi tìm vận hội mới. Khó có khả năng cuộc di cư này do người Triều Tiên chủ động, bởi thời điểm đó, người Triều Tiên chưa thực đông và cũng chưa hội đủ sức mạnh để làm cuộc di dân lớn đến vậy – có dự đoán tới vài triệu người. Có lẽ hợp lý hơn là sự “dồn toa” dây chuyền do khủng hoảng dân số ở Trung Quốc tác động tới. Trên đất Nhật, những người nhập cư này được gọi là người Yayoi. Chắc chắn rằng, vào thời điểm này, trong thành phần Đông Di cũng như người Triều Tiên, còn một lượng người Việt cổ thuộc nhóm loại hình Australoid, đồng chủng với Jomon. Vì vậy, theo nghĩa nào đó, người Yayoi đồng chủng với Jomon, có thể có những nhóm còn chung ngôn ngữ nữa. Vì vậy, có cơ sở để cho rằng, cuộc di dân của Yayoi là nhập cư hòa bình. Một cách tự nhiên, người Jomon tiếp thu phương thức sản xuất cũng như nguồn gen từ người mới tới. 3. Người Nhật hiện đại Chúng tôi cho rằng, phần lớn người Yayoi nhập cư thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Khi hòa huyết với người Jomon bản địa thuộc nhóm loại hình Australoid, đã sinh ra lớp người Mongoloid phương Nam mới, chính là tổ tiên người Nhật hiện đại. Khi lai với người Mongoloid phương Nam, nguồn gen Mongoloid trở nên áp đảo, che khuất yếu tố Australoid của Jomon. Điều này dẫn tới những ý kiến sai lầm cho rằng người Jomon không tham gia vào việc hình thành người Nhật hiện đại. Việc tìm thấy những di cốt đang chuyển hóa từ Jomon sang Yayoi là bằng chứng thuyết phục. Hiện tượng như vậy cũng thấy ở Việt Nam, rõ nhất tại di chỉ Mán Bạc, Ninh Bình (6). Phương án của chúng tôi hóa giải được mâu thuẫn: người Nhật Bản trẻ về di truyền nhưng ngôn ngữ lại cổ? Người Nhật Bản chỉ ra đời từ thế kỷ IV TCN, muộn hơn các dân tộc Đông Á khác khoảng 2000 năm. Chính vì vậy, về di truyền, họ trẻ nhất khu vực. Về ngôn ngữ, người Nhật hiện đại kế thừa ngôn ngữ của người Việt cổ Jomon cùng với ngôn ngữ của nhóm Việt nào đó trong cộng đồng Đông Di thiên cư. Sau thời Chiến Quốc tới thời Tần, Hán, người Đông Di bị Hán hóa nên mất ngôn ngữ gốc. Trong khi đó những người di tản 2400 năm trước vẫn duy trì ngôn ngữ tổ tiên trên đất Nhật. Đó có thể là lý do vì sao ngày nay không thấy ngôn ngữ nào trên đất liền châu Á giống với ngôn ngữ Nhật và người Nhật có ngôn ngữ riêng độc đáo, cổ xưa của mình. Như vậy, cũng loại bỏ khả năng “người châu Á du cư, cưỡi ngựa đi qua Triều Tiên tới Nhật.” Là người du mục, họ không thể có những kỹ năng nông nghiệp như vậy. Yayoi chính là người Đông Di nông nghiệp vùng Sơn Đông. Dựa trên đặc điểm ngôn ngữ và di truyền của người Triều Tiên và Nhật Bản, chúng tôi cho rằng: thoạt kỳ thủy, tức là vào khoảng 30.000 năm trước, người Nhật và người Triều Tiên cùng một mã di truyền. Có nghĩa là thành phân dân cư hai nước giống nhau. Người được gọi là Jomon không chỉ sống ở Nhật Bản mà cũng sinh sống trên đất Triều Tiên. Có hai khả năng dẫn tới điều này: người Việt cổ tới Nhật rồi từ đó tràn sang Triều Tiên theo những cầu bằng đất nối hai lãnh thổ. Cũng có thể người Việt cổ từ Trung Hoa tới Triều Tiên rồi sang Nhật. Suốt thời gian dài, giữa hai lãnh thổ duy trì tình trạng như vậy. Chỉ từ sau 2600 năm TCN, với cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, người Bách Việt thuộc chủng Mongoloid phương Nam tràn tới Triều Tiên, làm cho người ở đây biến đổi cả về di truyền lẫn ngôn ngữ. Chính ở thời điểm này, ngôn ngữ Triều Tiên và Nhật Bản phân ly. 4. Người Ainu Dựa vào ngoại hình cũng như quan hệ di truyền của người Ainu được trình bày ở phần trên, chúng tôi cho rằng nguồn gốc của họ như sau: Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Á đi tới cao nguyên Tây Tạng, rồi từ đây sang Trung Á sau đó đi vào châu Âu. Tại đây họ hòa huyết với những người từ bán đảo A rập cũng vừa lên, tạo ra chủng Caucasoid, là tổ tiên người châu Âu hiện đại. Khoảng 15.000 năm trước, có những nhóm người từ Trung Á trở lại Tây Tạng. Do tiếp xúc với người châu Âu nên trong máu họ có gen Caucasoid. Từ Tây Tạng họ di cư lên Đông Bắc Á để vượt eo Bering sang châu Mỹ.(7) Trên đường hành trình, có những nhóm dừng lại định cư trên một số hòn đảo cực bắc và cực nam Nhật Bản. Đó chính là người Ainu. Do sống biệt lập nên người Ainu chỉ hòa huyết với một bộ phận nhỏ người ở bắc và nam Nhật mà không góp phần vào nguồn gen của người Nhật hiện đại. Đấy là nguyên nhân không thấy gen Ainu ở trung Nhật, nơi tập trung phần lớn dân cư Nhật Bản. Kết luận Thiết tưởng, với trình bày trên, chúng tôi đã giải quyết thỏa đáng vấn đề nguồn gốc người Nhật hiện đại. Nói thỏa đáng vì phương án của chúng tôi không mâu thuẫn với những dữ liệu lịch sử, ngôn ngữ, di truyền người Nhật hiện có. Không những thế, nó nhất quán với sự hình thành dân cư Đông Á. Thỏa đáng còn vì nó hóa giải được những nghi án tồn tại từ lâu như vì sao người Nhật trẻ về sinh học nhưng lại có ngôn ngữ cổ. Nó giải thích được sự tham gia của yều tố Triều Tiên trong di truyền và ngôn ngữ Nhật. Nó cũng truy tìm được gốc gác thực sự của người Ainu, xếp họ vào nhóm riêng, loại trừ ý tưởng sai lầm coi Ainu là hậu duệ của người Jomon rồi từ đó cho rằng người Jomon không có vai trò gì trong việc hình thành người Nhật hiện đại. Như vậy là, cùng với người Triều Tiên, Trung Hoa và các dân tộc Đông Á khác, người Nhật Bản cũng là hậu duệ của những tổ tiên từ châu Phi tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tân Phú, 19. 7. 2008 Tham khảo: 1. Jared Diamond: Japanese Roots. Just who are the Japanese? Where did they come from, and when? http://www2.gol.com/users/hsmr/Content/East%20Asia/Japan/History/roots.html 2. The Genetic Origins of the Japanese. applet-magic.com Thayer Watkins Silicon Valley & Tornado Ally USA http://www.sjsu.edu/faculty/watkins/japanorigin.htm 3. J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768. 4. Stephen Oppenheimer: Địa đàng ở phương Đông. NXB Lao Động, Hà Nội, 2004. 5. Zhou Jixu: The Rise of Agricultural Civilization in China. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006 6. Hà Văn Thùy. Tìm lại cội nguồn và văn hóa của người Việt. NXB Văn học. H. 2007. 7. Stephen Oppenheimer. Out of Eden Peopling of the World *http://www.bradshawfoundation.com/journey/introduction.html

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...