Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Chứng Cứ Lịch Sử

013058    VỤ HIẾP DÂM LỊCH SỬ LỚN NHẤT CHƯA ĐƯỢC TUYÊN ÁN

     Bàn về văn minh Hy Lạp ông W. Durant có mở đầu một câu “khó có thể thiết lập một nền văn minh mà không cướp phá, cũng như khó có thể duy trì văn minh mà không phải dùng đến nô lệ” (Civ II.10). Đó là câu đáng ghi nhớ vì nó thực cho hết mọi nền văn minh. Chữ văn minh ở đây xin được hiểu theo nghĩa chuyên biệt ngược lại văn hóa. Văn hóa đi với nông nghiệp vốn tính hiền dịu và tổ hợp theo lối thôn làng được cai trị bằng tục lệ. Văn minh trái lại đi với thành thị, quân đội, nhà nước, pháp luật. Phân biệt này tỏ ra rất thuận tiện trong việc tìm về nguồn gốc, nhất là trong khảo cổ, nên được dùng nhiều trong bộ triết lý An Vi này.

Hôm nay xin nói về một vụ cướp đoạt lớn nhất mà văn minh Tàu đã phạm đối với văn hóa Việt: đó là vụ Nữ Oa Thái Mẫu bị Hoàng Đế hiếp. Sự vụ rất phiền toái cần được một lần phanh phui để thấy rõ cổ sử Tàu ra sao, Việt bị ăn hiếp như thế nào.
Ta đã biết ba cột cái của Việt là số 2, 3, 5 Nho công thức thành âm dương, tam tài, ngũ hành. Đó là những ý niệm bao la trừu tượng đã được cụ thể hóa bằng đặt cho những tên huyền sử: Tam tài trở nên Tam Hoàng là Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông đại diện cho trời, đất, người. Người chỉ bằng Nữ Oa trong tay cầm cái quy ┼ cũng gọi là thập tự nhai thành bởi hai nét ngang dọc, nét ngang chỉ đất, nét dọc chỉ trời, hai nét hợp lại chỉ Người được định nghĩa là Thiên Địa chi đức. Còn ngũ hành được cụ thể hóa bằng Ngũ Đế là Thái Hạo, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Trong bảng ngũ hành, hành Thổ quý nhất do địa vị trung ương, được xếp đặt như sau:
             Thủy
 Kim      Thổ      Mộc
             Hỏa
Đó là lối xếp cơ cấu với ý nghĩa siêu hình dành cho Thổ địa vị siêu lên khỏi bốn hành chung quanh để chỉ Con Người Đại Ngã làm chủ vũ trụ. Đó là lý tưởng, còn trong thực trạng ngũ hành cũng như âm dương đã bị lạm dụng theo nghĩa ma thuật dị đoan.
Ngũ hành cũng được dùng vào lịch sử để làm dáng cho triều đại, bắt họ với những tổ huy hoàng. Theo đó quý nhất là Tam Hòang, thứ nhì là hành Thổ, thứ ba mới tới 4 hành xung quanh. Con người ai chả sính làm đẹp cho dòng tộc, người Tàu cũng theo luật đó, nhưng đã nổi bật trong vụ này vì có thuyết Tam Hoàng và Ngũ Đế trợ lực: gia phả quý nhất là móc nối được với Tam Hoàng, nếu không được thế cũng phải cố níu lấy một Đế nào đó mới chắc có Thiên mệnh trước mặt dân chúng vì các Đế kế tiếp theo thứ tự tiên thiên ngũ hành, nên móc nối dòng tộc vào được ngũ đế là chứng minh được thiên mệnh cho dòng tộc. Triều đại nào lên ngôi đúng vào hành Thổ thì sang vô cùng. Vậy ta hãy xem các triều đại xếp đặt theo thứ tự các hành, các hành theo thứ tự các mùa như sau:
Mộc chỉ mùa                Xuân                màu xanh
Hỏa chỉ mùa                 Hạ                    màu đỏ
Thổ chỉ mùa                  Tứ Quý            màu vàng
Kim chỉ mùa                 Thu                  màu trắng
Thủy chỉ mùa                Đông                màu đen
Đó là thứ tự vòng sinh: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Ngũ Đế đầu tiên xếp theo vòng sinh này mở đầu bằng Thiếu Hạo cũng gọi là Kim Thiên. Ngược lại thứ tự khắc: Thủy khắc hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.  Cuối đời Chu đã bắt đầu lập lệ đặt gia phả triều đại, nhà nào cũng cố móc nối với một ông lớn như Nghiêu Thuấn, Chuyên Húc, Hoàng Đế. Tư Mã Thiên có lẽ vì nể Đạo Lão đã dùng vòng kháng khắc đặt Hoàng Đế lên đầu ở hành Thổ, ông Granet gọi đó là tội gian lận bắt được quả tang đổi huyền thoại ra sử ký. Theo bảng này nhà Chu ở vào hành Hỏa, dùng màu đỏ (màu Chu). Nhà Hán kế tiếp Chu phải là hành Thủy (thủy khắc hỏa) nhưng hành Thủy tầm thường không xứng với nhà Hán đã mở mang bờ cõi rộng lớn chưa từng có trong lịch sử Tàu, vậy phải xoay trở thế nào cho được hành Thổ. Khó chi đâu chỉ việc đẩy Tần Thủy Hoàng ra, chữ Thủy vừa có nghĩa là thứ nhất mà cũng có nghĩa là nước: Tần Hòang thờ Hà Bá. Vậy khắc Thủy phải là Thổ. Thế là nhà Hán diệt Tần nhận hành Thổ, đúng điềm triệu xuất hiện khi lên ngôi trong đó có sâu đất (Thổ) vô kể!
Tuy sự tráo trở đó gọi được là xuôi, vì thứ tự Ngũ Đế trước chưa phổ biến lắm, nhưng cũng không qua mắt được một số Nho gia trong đó có Lưu Hàm và con là Lưu Hưởng đã lập lại bảng sinh với hai điều đổi mới, một là đẩy xa hơn: các người trước như Trâu Diễn hoặc Tư Mã Thiên chỉ đi đến Hoàng Đế là tận cùng. Trái lại cha con Lưu Hâm gồm cả Thần Nông và Phục Hy vào nữa. Hai là thêm vào một ít triều đại tùy bằng “hành thủy đệm” để cho dễ xếp chỗ ngon cho thần tượng của ông như sau:

HÀNH                         NHÀ CAI TRỊ
Mộc                             Phục Hy
(Thủy đệm)                   Cung Công
Hỏa                              Thần Nông
Thổ                              Hoàng Đế
Kim                              Thiếu Hạo (Kim Tân)
Thủy                             Chuyên Húc
Mộc                             Đế Cốc
(Thủy đệm)                   Đế Chí
Hỏa                              Đế Nghiêu
Thổ                              Đế Thuấn
Kim                              Hạ Vũ
Thủy                             Thương
Mộc                             Chu
(Thủy đệm)                   Tần
Hỏa                              Hán
Thổ                              Vương Mãng
Theo bảng trên Hán bị mất ghế Thổ phải ra ngồi ghế Hỏa, làm sao được Hán triều hoan nghênh, Lưu Hâm súyt bị thiệt mạng là thế. Nhưng khi Vương Mãng lên nắm chính quyền liền tuyên dương bảng trên vì mình được vào trung cung hành Thổ (Hỏa Hán sinh Thổ Vương Mãn), thế là sang hơn nhà Hán: không thèm móc nối Đế Nghiêu như Hán nữa mà với Hoàng Đế, tức lên một bậc: tự Đế nhảy lên Hoàng! Hoàng Đế trị theo Thổ đức, Vương Mãng cũng trị theo Thổ đức với màu vàng chói. Nay ta phân tích thì thấy rõ sự giả tạo, nhưng xưa ít ai nhận ra nhất là khi Vương Mãn đổ thì lưu truyền đã ăn sâu lại được biên cả vào Tiền Hán Thư, thế là bảng trên được công nhận chính thức, được tin tưởng cho đến đầu thế kỷ hai mươi không một ai đặt vấn đề.
Trong bảng trên ta thấy Hoàng Đế được tôn vinh cùng cực: vừa lên bậc Hoàng, còn Đế thì ở địa vị Thổ. Không thể tôn vinh Hoàng Đế hơn được nữa. Hoàng Đế được tôn vinh tức là dân Tàu được lên theo, được tôn vinh đến cùng tột nên Lưu Hướng có đổi bảng khắc ra bảng sinh, có đưa thêm vào nhiều cải cách cũng vẫn theo Tư Mã Thiên dành chỗ tốt nhất cho Hoàng Đế. Điều đó không lạ: dân nào cũng có thể làm thế nhưng ở đây sự tôn vinh kéo theo một sự ăn hiếp là đẩy Nữ Oa ra để có chỗ trống cho Hiên Viên được tham dự vào đợt Hoàng, nhưng đây là vụ ăn cướp không kịp cạo số. Vì theo huyền thọai Tàu không bao giờ có tên Hoàng, mà chỉ có Việt mới gọi là Hoàng Việt. Việt bắt đầu bằng Hoàng kỷ, Tàu khởi ở Đế kỷ. Vậy chữ Hoàng thêm vào cho Hiên Viên là giả tạo, đồ nghề giả tạo là thuyết Tam tài, ngũ hành. Đấy là điểm một.
Điểm hai sự giả tạo nọ làm mất tính chất cân đối âm dương ở bộ ba đầu là lưỡng long chầu nguyệt: Nguyệt là Nữ Oa làm nguyên lý mẹ ngự giữa hai long là Phục Hy và Thần Nông theo luật Kinh Dịch “quả vi chủ” (ít làm chủ) được biểu thị bằng quẻ li của Việt tộc. Phục Hy và Thần Nông là hai hào dương phải nhường chức chủ tịch cho Nữ Oa ở giữa. Cả ba đều là Việt. Theo phương pháp phân tích máu văn hóa thì Phục Hy, Nữ Oa đều họ tiên rồng. Phục Hy có họ phong (gió: liên tưởng tới chim) cũng có tên gọi là Thanh Tinh, rồng xanh, cũng họ rồng như Lạc Long Quân. Còn Nữ Oa sinh tại Đồ Sơn tên cũ của Cối Kê kinh đô Việt Chiết Giang, lúc qua đời hóa thành chim Tinh Vệ (cùng họ tiên (chim) như Âu Cơ). Huyền thoại nói: chim Tinh Vệ tha đá “lấp bể Đông” vì đã chết đuối ở bể. Đó là nói liều, vì Nữ Oa có nghĩa là loài ở dưới nước (nhái, ốc, cá) ta gặp hình bà đầu người mình rắn, hoặc cá… làm sao chết đuối được; bà tha đá bỏ xuống biển là dấu nhớ thương Phục Hy, nhớ thương Thanh Tinh. Chữ Tinh Vệ nói lên sự muốn duy trì bảo vệ mối liên hệ với Thanh Tinh tức với rồng xanh, vì đó là liên hệ nền tảng. Huyền sử nói bà là em hoặc vợ của Phục Hy, cả hai chữ chỉ tỏ mối tình thắm thiết, đồng thời nói lên mẫu đề huyền thoại một số dân Đông Nam Á anh em lấy nhau. Thêm một lẽ Nữ Oa thuộc văn hóa Đông Nam của Việt tộc. Mối liên hệ thắm thiết ấy bị Hoàng Đế phá vỡ, đẩy Nữ Oa ra ngoài, tức văn minh bỏ nguyên lý mẹ để trở nên duy dương du mục. Đó là tính chất nổi trong văn minh Tàu.
Tàu thờ Hậu Tắc (Lord Millet) làm điền tổ. Tắc là lúa ruộng khô (pannicled millet) đối với mễ (oriza sativa), ruộng nước mà điền tổ là Thần Nông. Thần Nông bị đẩy do Hậu Tắc (thành ra xã tắc) thì vào ẩn ở nông thôn. Nông thôn là tổ của văn hóa, duy trì nguyên lý mẹ. Còn văn minh ở tỉnh thành chú ý nguyên lý cha. Văn minh du mục thắng thì nguyên lý mẹ bơ vơ mất chỗ đứng, chỉ còn cách bù trừ bằng lương tri: nói bóng là gửi những viên đá xuống biển đối với việc đội đá vá trời. Đá chỉ nơi ở của chim tiên ở trên núi (đá) tức ở giữa trời cùng đất để làm mối liên hệ với cả hai: cả trời (đội đá vá trời) cả đất chỉ bằng nước bằng hình trên trống đồng, chim âu (cơ) lao xuống miệng rồng đặt cái hôn sâu thẳm, cái hôn giao cấu để sinh ra trăm con đang nhởn nhơ múa hát trên thuyền. Vậy thì Tinh Vệ không có ý lấp bể Đông mà là cố nối lại phần nào mối liên hệ đằm thắm cũ, nó phảng phất 4 câu thơ do tiềm thức cộng thông linh hứng qua ngọn bút tài tình của thi bá Nguyễn Du:
“Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng bóng hồng lúc gieo.
Tình thương bể thắm lạ điều
Mà hồn Tinh Vệ biết theo chốn nào.”
Đó! Hồn Tinh Vệ không tha đá lấp bể, mà là gửi cánh hồng về thăm chồng để phần nào cố duy trì “tình thương bể thẳm” là nguyên lý mẹ. Nhờ sự cố gắng tha đá bỏ bể đó mà văn hóa Việt Nho chưa đến nỗi đốc ra đực rựa tức còn giữ được phần nào nguyên lý mẹ như sự mềm dịu, nhu nhã đi với tình người. Còn văn minh do Hoàng Đế lãnh đạo vì đẩy Nữ Oa ra thì Tam Hoàng trở nên đực rựa: ba cái đực rựa thì quả là duy dương, văn minh trở nên du mục, võ biền, chuyên chế. Người lập ra bảng này cũng cảm thấy có sự bất ổn nên thêm tên Cộng Công tuy dòng dõi Thần Nông nhưng đã làm nứt trời khổ công Nữ Oa phải vá đi vá lại, nên phải kể là Việt gian không thể thay thế Nữ Oa được. Vả Cộng Công là đực rựa thêm vào thì ra 4 góc: mất cả chữ ba cao trọng của Tam Hoàng. Vì thế bảng trên không được công nhận khắp hết.
Ta thấy trong các sách Tàu kể thứ tự Tam Hoàng Ngũ Đế không hợp nhau. Ngũ Đế có Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Tam Hoàng thì có Toại Nhân, Phục Hy, Nữ Oa. Mỗi sách có bảng riêng (1). Đây là bài tổng quát không tiện đi vào chi tiết, chỉ cần biết có sự khác biệt trong các sách để không ngạc nhiên khi nghiên cứu. Sự dị biệt chỉ nói lên chứng tích của vụ ăn hiếp. Cần ghi nhận nữa là vụ ăn hiếp này có tầm ảnh hưởng vô biên vì nó không là trò chơi gia phả vô tội vạ mà là đại diện cho trào lưu chung của nhân loại là văn minh du mục đàn áp văn hóa nông nghiệp, và tự đấy đã chôn táng nguyên lý mẹ mà chúng ta cần phải phục hoạt (xem bài Còn Mẹ trong Kinh Hùng). Đó là một việc dài hơi. Ở đây ta hãy nhận định tóm lược rằng sử Tàu chỉ đáng tin cậy là tự năm 721 trên nữa thì nhận tạm được đến nhà Thương, ngoại giả đều là huyền thoại, đừng tin là lịch sử, cần phải phân biệt thực hư vì điều này rất quan trọng đến việc tìm về nguồn gốc văn hóa Việt tộc.
(1) Ông Eberhard có lên sổ được cả trăm bảng khác nhau như bảng của nhóm Am Dương, của Hồng phạm của Trâu Diễn, của Nguyệt Lệnh, của Tố Văn (Hoàng đế nội kinh) của Lễ ký v.v… Need II. 264
Việt nho chỉ có ý bênh vực con người chống lại du mục đã hiện thân vào du mục, và du mục bên Viễn Đông đã bắt tay phần nào với Tàu nên Tàu đã vô tình tư sản hóa những mẫu mực của Việt. Năm 1919 Tàu làm cuộc cách mạng văn hóa tưng bừng ở tại dùng tiếng Bạch thoại thường dân làm ngôn ngữ văn học, nhân đó nhiều nhóm nhiều đại học đã đi tìm lại những chuyện cổ tích, những huyền thoại của thôn dân, của các sắc tộc thiểu số, thu thập và in ra nhiều ngàn truyện xưa, nhưng sau Tưởng Giới Thạch đã chặn đứng trào lưu đó, một trong các lý do có lẽ chính cốt là sự tìm kiếm đó làm lu mờ  hoặc phá hủy hẳn những trang đầu oai nghi của “ngũ thiên niên sử Tàu”, vì các Hoàng Đế cao cả bị ánh sáng khoa học soi vào thì chỉ còn là những anh hùng thần thoại nghĩa là giả tạo (Hoàng Đế thí dụ) hoặc là những vật tổ của các bộ lạc man Di. (xem chi tiết trong quyển Folktales of China by Wolfram Eberhard. The University of Chicago 1965 p.XXXIV).
Vua Quang Trung xưa có giấc mơ đòi lại hai tỉnh Lưỡng Việt đã bị gọi bằng tên không liên hệ đến chủ quyền cũ nay đổi ra Quảng Đông Quảng Tây. Ta cần nối chí Quang Trung trong lãnh vực tinh thần là thâu hồi lại chủ quyền của các truyện huyền sử đã bị coi là của Tàu: như truyện Bàn Cổ, Tam Hoàng… Hiện bầu khí rất thuận lợi vì được sự trợ lực của các khoa học tân nhân văn: khảo cổ, dân tộc học, nhân tộc học, xã hội học, cổ sử, cổ nghệ, cơ cấu luận. Do đó từ 1970 năm xuất bản quyển Việt Lý Tố Nguyên tới nay tôi đã viết rất nhiều, quan trọng nhất là Sứ Điệp Trống Đồng. Nhưng xem lại thấy lực bất tòng tâm: cánh đồng mênh mông mà phương tiện và sức không đủ, nên chỉ xin coi các sách trên là mấy tiếng kèn ra trận gửi đến các nhà chuyên môn mai hậu để hợp lực viết lại những trang sử thời sơ khai của nước nhà, những trang sử đầy ứ chất văn hóa cao cả mà bấy nay chưa được khai quật đúng cung cách.
Hiện thế giới đang có những cố gắng khai quật như vậy nhưng sự việc không được sai trái như đối với Việt Nho. Bởi văn hóa Việt đã có lâu đời được thành lập vững bền trước khi Hòang Đế xâm nhập nên đã để lại ấn tích sâu đậm trong dân gian, nhờ đó nhà nghiên cứu có được nhiều tiêu điểm đánh dấu bước đường truy căn. Sau đây chỉ xin đưa ra tục tả nhậm làm thí dụ.
Tả nhậm nghĩa siêu hình là hướng theo trời, là chỉ “tình thương bể thẳm”. Kinh Thư nói “Tứ Di tả nhậm”. Bốn Di theo tục tả nhậm. Bốn Di cũng là tứ hải theo sách Nhĩ Nhã là bốn dân quanh nước Tàu tức là Việt tộc. Tiền nhân cất nhà có lể thượng đòn Đông, lấy hướng Đông làm trọng (tức là tả nhậm). Con gái ở phòng Đông, con trai ở phòng Tây, đó là theo lúc Nữ Oa còn làm nội tướng. Các điển chương như Lạc Thư, trống đồng đều tả nhậm (tiến theo vòng tay tả). Kinh điển Nho chứa đầy lộn xộn khi đề cao tả, lúc đề cao hữu (như đã bàn trong Việt Lý Tố Nguyên) những sự lộn xộn đó là những ấn tích quý hóa cho việc truy tầm nguồn gốc. Đại để ban đầu Hoa tộc đề cao bên hữu, khinh rẻ bên tả, gọi là trái (tay trái) là hèn (tả đạo là tà đạo) nhưng sau bị Việt cảm hóa dần dần: coi trọng bên tả, khi tiếp khách thì để khách bên Đông tức bên tả là có ý trọng kính. Đi đường đàn bà bên tả đàn ông bên hữu (nam tử do hữu, nữ tử do tả. Lễ ký III. 515). Sau còn coi trọng bên tả bên Đông đến độ dành phòng Đông cho Thái tử kế vị gọi là Đông cung Thái tử. Nay ta quen nói nam tả nữ hữu là vô tình đi theo Hán nho. Chứ theo Lạc Thư thì về ngay bên hữu “nam tử do hữu”, chàng ràng bên tả làm chi đây, chực theo đóm Hoàng Đế ăn tàn du mục hay sao?
Tóm lại vì văn hóa Việt xuất hiện lâu đời trước, đã để lại những rễ lớn như Lạc Thư, trống đồng, tục tả nhậm, gái ở phòng bên tả… nên nguyên lý mẹ vẫn còn họat động được phần nào. Huyền sử chỉ bằng tích:
Nữ Oa đội đá vá trời, tha đá lấp bể.
Âu Cơ nghi mẫu lâu lâu gặp Lạc Long Quân trên cánh đồng Tương.
Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm có hội…
Do vậy việc “Phục Việt” trở thành một ngành nghiên cứu đầy hứng thú có bằng chứng thi vị mà vững chắc. Hơn nữa đó cũng là làm việc đóng góp tích cực vào nền văn hóa loài người đang cố gắng làm sống lại nguyên lý mẹ để tẩm nhuận cho nền văn minh hiện đại đượm thêm tình người. 

Kim Định, Hùng Việt Sử Ca



Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

013057 SỬ TÀU XUYÊN TẠC NHỮNG GÌ

SỬ TÀU XUYÊN TẠC NHỮNG GÌ

1. Những vị khai thiên lập địa đầu tiên – Tam Hoàng còn gọi Tam Vương.                                                                               
     Tân quốc văn (quyển 5 bài I) có viết “Hỏa thực thủy ư Toại Nhân, súc mục thủy ư Phục Hy, giá sắc, y dược thủy ư Thần Nông. Các vị sáng lập này có lâu đời trước khi người Tàu vào Trung Quốc. Quyển Tân quốc văn đã thâu thập từ nhân thoại (trong dân chúng) nên là chứng tích vô tư. Ðó là một số lý do cho phép nghĩ rằng Viêm Việt đã đi vào nông nghiệp trước Tàu và nếu cứ căn cứ vào niên kỷ truyền thuyết của Toại Nhân là năm 6.000, Phục Hy là năm 4477 và Thần Nông 3326. Toại Nhân là thời săn bắt hái lượm, mới tìm ra lửa, Phục Hy là thời Viêm Việt bước mạnh vào súc mục, còn Thần Nông là thời đi vào nông nghiệp. Các học giả đời mới hạ thấp hai niên kỷ trên xuống 1628 cho Phục Hy ( tức 2852 thay vì 4477 cũ ) và 583 cho Thần Nông ( tức 2737 thay vì 3320 cũ ) là vô tình bóp méo truyền thuyết của Viêm Việt để sáp nhập vào sử của Hoa tộc.                                        
                             
            
Vậy phải coi niên kỷ cũ là của Viêm Việt và cần được duy trì thì mới hợp với những thám quật ở Non Nok Tha và Hang Thần cũng như Lang Chử, Phương Tị Ðầu . . .
     Giả thuyết cho rằng Phục Hy, Thần Nông là Tổ của Tàu, còn Việt Nam chỉ nhận là cháu ba đời, cũng đồng ý rằng Phục Hy và Thần Nông không có mặt tại Hoa Bắc. Vậy thì ở đâu ? Nếu xét theo niên kỷ truyền thuyết ( mà ở đây không có căn cứ khác ) thì phải ở Hoa Nam vùng Tứ Xuyên và sông Hoài vì câu chuyện Lộc Tục với họ Hồng Bàng của Ta xẩy ra năm 2879, tức lâu trước khi Hoàng Ðế vào nước Tàu ( 2697 ) .Và tuy Ðế Minh chỉ nhận cháu 3 đời của Thần Nông thì cũng hơn Tàu không có liên hệ nào tuy có truyền thuyết nói Hoàng Ðế với Thần Nông cùng một Tổ là Thiểu Ðiển, nhưng khó chấp nhận và cách nhau cả hơn 600 năm, lại ở xa dưới miền Nam và cực Ðông vùng Bắc Kinh, là miền mãi đời Hạ, Tàu cũng còn chưa tới được, thế mà Thần Nông lại có con cháu ở Hoa Nam, thí dụ Tam Miêu con cháu của Tấn Văn Chi chòm của Thần Nông. Vì thế chính sử Tàu không kể tới, còn truyền thuyết nhận Thần Nông Phục Hy là Tổ người Tàu thì chẳng qua là chuyện lộn xộn do xâm lăng chiếm đất thì cũng chiếm luôn Tổ và nhận vơ, chứ nếu cứ xét theo huyền thoại thì Phục Hy không phải là người Tàu. Bà Hoa Lư dẫm vào lốt chân người to lớn ở Lôi Trạch mà đẻ ra ông Phục Hy, vậy là Phục Hy được sinh ra theo lối “Dã hợp” của Viêm Việt. Có truyền thuyết nói về thần Nữ Bạt sợ điền Tổ ( Thần Nông ) không dám lên trời, Hoàng Ðế phải cho lên trú ngụ mạn Bắc. Vậy thì Nữ Thần Bạt là con Hoàng Ðế, nay thánh quan thầy của Hoàng Ðế đã có công giúp ông đánh bại Si Vưu , mà lại sợ Thần Nông thì chắc khác chủng tộc . . .
2. Hoàng Đế đánh Đế Lai tức Li Vưu, sau bị xuyên tạc thành Si Vưu (Thủ lĩnh ngu si ngớ ngẩn) ở trận Trác Lộc. (X. Thử máu văn hóa Việt, Kim Định)
3. Vua Tàu hủy bỏ Trống Quân
     Ý tưởng bàng bạc (tức không ý thức minh nhiên) trong bầu khí trống quân trong các lối hát, các lối hội chùa Lim v.v… mà ta có thể gọi chung là Hội mùa xuân = “chơi xuân”. Tuyệt không có một ý nghĩ tội tình nào pha trộn: từ khi hát đối, liếc nhìn, chọn lựa đến việc tặng hoa thược dược, hoặc trao mấy cành cây nhỏ bó lại để biểu thị sự đoàn tụ đôi bên và cuối cùng hợp thân v.v… tất cả đều được làm một cách kính cẩn trang trọng của một cuộc tế tự có tất cả dân làng tham dự, trong không khí tưng bừng của ngày đại lễ, làm bằng ăn, uống, hát, múa trong niềm hoan lạc thiêng liêng. Nó soi sáng cho những tích trong lịch sử chẳng hạn bà Giản Địch nhân lúc đang dạo ngoài đồng nuốt trứng chim én liền có mang sinh ra tổ nhà Thương… thì ta hiểu ngay được rằng khi bà đi hội vào lúc hoa nở “ngày xuân con én đưa thoi” nó thoi ngay vào bụng bà nên bà có mang. Sự có mang đó không hề một ai cho là xấu mà còn mừng cho đứa con của bà sau này được tôn lên làm vua nhà Thương v.v… Vua nhà Thương được sinh ra do bà mẹ nếu không Việt trong dòng máu thì cũng được thụ thai trong buổi lễ đầy Việt tính nên nói là nuốt trứng chim (Kinh Thi Đại nhã bài Huyền điểu). Chim đi với Tiên, mà lại nuốt trong buổi lễ “giao mối” (người mối lái ở phía nam) tức là trong một cuộc hát trống quân được kiểu thức hóa. Nói vắn là hoàn toàn Việt nền bà Giản Địch may mắn hơn bà Khương Nguyên sinh ra Hậu Tắc là tổ nhà Chu . Nhà Chu thuộc du mục rồi sau mới được chuyển hóa theo văn minh nông nghiệp của Viêm Việt. Cho nên bài sinh dân (kinh Thi đại nhã) có thể coi là một thứ huyền sử ghi lại sự chuyển hóa tự du mục Hoa sang nông nghiệp Việt. Thoạt tiên bà Khương Nguyên đi hội mùa xuân. Kinh Thi nói là bà đạp lên lốt chân người to lớn, bụng sưng lên, nhưng khi đẻ ra thì bà sợ nên đem con bỏ ngoài đường hẻm. Đó là hậu quả của luân lý thanh giáo Bắc phương không chấp nhận lối sinh con ngoài hôn phối. Thế nhưng bò dê (hiểu là văn hóa nông nghiệp) lại đến sưởi ấm và khi Hậu Tắc lớn thì trời ban cho tài trí biết trồng ngũ cốc (hiểu là đi vào văn hóa Viêm Việt).
     Sở dĩ người ta không hiểu vì thói tục trên đi ngược Bắc phong, nên Hán Nho thường có những câu kể lại cách khinh dễ như “quân thần đồng xuyên chi dục” của sách Phong tục thông và “Nam nữ đồng xuyên chi dục” của Hậu Hán Thư và các vương triều của Trung Hoa xưa đã cấm hát trống quân ở phương nam và gọi việc cấm đó là “đức hóa” của nhà vua và thực chất chỉ là một cố gắng đàn áp văn hóa Viêm tộc. Sau này Tần Thuỷ Hoàng khoe mình đã trong sạch hóa phong tục phương nam nhất là ở nước Việt, thì phải hiểu về vấn đề tình dục (nên đọc cả trang 488 trong quyển La pensée chinoise của Granet để thấy rõ hai tinh thần Hoa Việt). Trống quân nếu được tổ chức đúng, thì phải ở bên bờ sông dưới chân núi và nhất là ở cửa Đông và Nam (Socio 79-80). Điều ấy nói lên mối liên hệ với nền văn hóa Đông Nam của Việt tộc.

VỤ ÁN xuyên tạc, đốt sách chôn Nho, sửa kinh văn

     Nhà Chu kéo dài 897 năm từ 1122-225 phát xuất từ Tây Di, học Cơ thuộc bộ tộc Nhung (hoặc Khương). Về văn hóa sút hơn nhà Thương rất nhiều, tuy nhiên chính nhà Chu đã biến đổi văn hóa Di Việt thành ra văn minh Tàu là do đến sau và cai trị lâu năm, và nhất là vì có tính cách du mục: phụ hệ, võ biền: đưa vào văn hóa Di Việt nhiều yếu tố du mục như chức thiên tử (ghé vua thần) quân đội chuyên nghiệp, luật hình, hoạn quan, hữu nhậm, ưa số 6 và 4, đàn áp đàn bà, khinh miệt dân chúng gọi là lê dân (dân đen đầu) hay kiềm thủ. Vì có pha máu Turc tóc vàng nên gọi dân thế. Và cũng từ đấy thì bắt đầu phân biệt Tàu với Di Việt bằng cách coi khinh và những chữ Di Địch mới hàm ý “rợ mọi” chứ trước không hề có thế. Vì Tàu đều xuất phát từ Tứ Di cả, nhưng khi đã chinh phục được Tứ Di rồi thì quay lại khinh rẻ gốc của mình. 
     Nhà Chu tận diệt sách của nhà Thương, nhà Tần đốt sách chôn Nho, nhà Hán xuyên tạc kinh văn (Hán Vũ Đế sai Lưu Hâm làm sách ngụy kinh của cổ nhân gọi là bí thư trong thư viện Thạch Cừ của riêng triều đình. Các nhà Thái học ở kinh đô đều phải dùng sách ở thư viện Thạch Cừ). Và sau này tuy đã nhận Nho nhưng vẫn còn lưu lại hai yếu tố phát xuất từ Tây là hoạn quan (Iran) và pháp hình để kiểm soát nho sĩ.                                                                                            
Hán Vũ Đế còn nghe Đổng Trọng Thư mà bãi bỏ bách gia chư tử. Điều đó làm cho nhiều người công phẫn với Thư, và đổ cho Thư là đổ đường cho Nho giáo đi đến chỗ độc tôn. Sự thật thì không phải là bãi bỏ bách gia chi hết mà chỉ là kế hoạch chính phủ dùng để vừa lấy lòng dân vẫn sùng Nho giáo, vừa chiếm độc quyền kiểm soát việc chú sớ kinh sách và cả đến "san định" lại các kinh truyện đã bị thất lạc sau vụ đốt sách chôn Nho của Tần Hoàng. "Do đấy mà Lưu Hâm được sai ra làm sách nguỵ kinh của cổ nhân gọi những sách bí thư trong gác Thạch Cừ của riêng chính phủ, tư nhân không ai có. Ở cái thời mà sách vở làm được rất khó khăn, chính phủ lại độc quyền tư hữu, những nhà thái học chốn kinh đô đều phải dùng sách ở gác Thạch Cừ, làm sách Thái sử coi như gia pháp" (Thục IV, 25) thì việc uốn nắn cho Nho giáo trở thành công cụ của óc độc tài chuyên chế có thể thi hành cách êm thắm. Vì thế mà trải qua bao đời mà rất ít người nhận ra hay có nhận ra đôi chút nhưng chưa bao giờ nghĩ tới việc gạn lọc cho Nho giáo trở nên tinh ròng. Hầu hết chỉ thấy "tử viết" thì cho là lời của Khổng Tử rồi lôi ra để hoan hô hay đả đảo tuỳ khuynh hướng, mà không nghi ngờ gì đến sự kiện lịch sử lớn lao trên đây. Do đó ta có thể cho việc bãi bỏ bách gia này là một cú chí tử đánh trúng tim gan Nho giáo; đem đặt vào miệng Khổng Tử những điều ông đả kích, để môn đệ ông phải chấp nhận và từ đấy Nho giáo đốc ra Hán nho. Vì thế ngày nay muốn tìm cho ra tư tưởng chính truyền của Nho giáo, chúng ta gặp khó khăn phụ trội: là phải phân định lại những câu trong tứ thư ngũ kinh có phải là của Nho chăng hay phải trả về cho chủ cũ của nó. Đó là một việc làm rất dài hơi, đòi rất nhiều công trình thuộc văn học. Ở đây chúng ta đứng trong cương vị triết lý thì sẽ dùng phương pháp triết lý; đó là nguyên lý nhất quán, nghĩa là tìm ra tinh thần Nho giáo nguyên thuỷ làm hồn và gạch bỏ những điều trái với tinh thần đó. Sau đây là vài thí dụ:  Trong Luận Ngữ chương XVI.2, Khổng Tử nói: "khi thiên hạ có đạo thì lễ nhạc, hình phạt, chinh phạt đều do thiên tử… Thiên hạ hữu đạo tắc lễ nhạc, chinh phạt tự thiên tử xuất… chính bất tại đại phu… thứ nhân bất nghị"Câu này rất dễ giải nghĩa theo lối chuyên chế nên có thể nghi ngờ là do luật gia xen giặm ít nhiều, nếu không toàn bích thì cũng một số chữ đủ bẻ quặt ý nghĩa.  Trước hết ngay từ ngữ đã nói lên điều đó. Trong câu dùng chữ thiên tử. Chữ này theo nghĩa gốc có tính chất thần thoại: coi vua như con Trời nên được những người chủ trương "kế thừa huyết thống Thượng Đế" ưa dùng, vì nó bao hàm ý tưởng nâng ông vua lên một bậc cao xa vượt hẳn dân chúng. Vì thế Khổng Tử không dùng chữ thiên tử mà chỉ dùng chữ Vương. Trong Luận Ngữ ông dùng chữ đó có một lần (III.2) nhưng là khi trưng lời Kinh Thi: "Thiên tử mục mục" (thiên tử phúc đức). Mạnh Tử dĩ nhiên cũng theo thầy và chỉ dùng chữ Vương, còn những lần ông dùng chữ thiên tử như "đắc hồ khâu dân, nhi vi thiên tử" thì rõ rệt là ông có y chọi chữ (le contraste des termes) để nói lên chủ trương kế hiền của ông: "thiên tử chẳng có nghĩa thần thánh chi mà hễ được lòng thắng dân là thắng cử". Chữ Khâu dân chỉ người dân ở đồng bái, thuộc thành phần "bố cu mẹ đĩ": hèn hạ là thế đấy nhưng hễ ai chiếm được lòng nó là làm đến tột phẩm cao sang, tức là làm Thiên tử. Nếu gặp một đôi trường hợp khác thì nên cân nhắc theo đồng văn để nhận ra dụng ý tác giả.

Trích những tác phẩm trong Triết Lý An Vi









Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

014005 KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ "TỪ HÁN VIỆT"

            KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ “TỪ HÁN VIỆT”
Posted by News on February 4th, 2014
Hà Văn Thùy
   Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”*. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
     Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.
I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?
      Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa. {*}

      Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội.

     Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á.
      Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam.
         Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
    Sự thật có đúng như vậy không?
    Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình.
     Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần thắng thuộc về bậc lão làng!
   Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận!
     Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!
     Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn năm nô lệ!
       Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3) trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa (5)!
     Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ viết.
     Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:
Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ. Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ.
     Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn Giáp cốt.
      Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.
Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự.
    Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ?    
Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt,  nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.
Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.
    Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?
Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.
Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết.
II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc
Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những tiếng không được ký tự bị mai một.
Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc.
Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là “từ Hán Việt !”. Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn?
     Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác.
Mấy trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.

III. Kết luận
Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!
Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.
Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng!
Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?
Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.
Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.
Madrak, 1. 12. 2013
Tài liệu tham khảo: 
1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá trình     hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979
2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.
3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com
4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết Trung Hoa  http://huc.edu.vn/chi-tiet/1868/Chu-Viet-la-chu-the-sang-tao-chu-viet-Trung-Hoa.html
6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện
7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014

Danh Nhân Văn Hóa

013053                   NHÂN DỊP KỶ NIỆM 290 NĂM NGÀY SINH
ĐẠI DANH Y HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC (1724-2014)


THÂN THẾ & SỰ NGHIỆP CỦA
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA


Tri ân Đấng Sinh Thành - Trời, Đất, Tổ Tiên,
Xin thắp nén hương Lòng , dâng hoa thơm ngát !


Lời dẫn

     Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791) là một Thầy thuốc của nước ta, được nhân dân và giới y học tôn vinh là Đại Danh Y, Nhà Tư Tưởng và Nhà Văn Hóa Lớn .
     Trong suốt gần bốn mươi năm làm nghề y, Hải Thượng Lãn Ông đã đem hết tâm trí của mình trị bệnh cứu người vì sức khỏe và hạnh phúc của nhân dân.
Cũng với tinh thần đó, Ngài nhận rõ ý thức trách nhiệm với tương lai của nghề y nước nhà. Xây dựng nền móng, cơ sở giáo dục, đào tạo, đồng thời sưu tập, tổng hợp, hệ thống và viết sách lưu truyền kiến thức và kinh nghiệm cho các thế hệ thầy thuốc và nền y dược cổ truyền tương lai nước nhà.
    Trên nền tảng Dịch lý, những vấn đề cơ bản mang tính nền tảng nghề y như Y đức, Y thuật và Y lý được đúc kết, Ngài đã cho ra đời bộ sách “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” một pho Bách khoa toàn thư về Y Dược học cổ truyền dân tộc, một công trình được biên soạn suốt cuộc đời với ý thức xây dựng một nền Đông Y Việt Nam bằng phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo, phản biện và tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với con người và hoàn cảnh đất nước.
     Nhờ đâu mà Hải Thượng Lãn Ông đạt được những thành tựu lớn lao như vậy. Câu hỏi được trả lời từ một số nhà nghiên cứu với những góc độ và lăng kính khác nhau, nhưng chưa phác họa thấu đáo chiều sâu minh triết, triết lý nhân sinh trên tinh thần Văn Hóa thái hòa uyên nguyên và vi diệu của dân tộc Việt từ cội nguồn. Đó là nền Văn Hóa Nông Nghiệp lúa nước của Đại Chủng Viêm Việt, Bách Việt và Văn Hóa Hòa Bình được khởi nguyên ở Thái bình Dương, rồi di chuyển lên miền Trung Nguyên nước Tàu, trải rộng từ đồng bằng sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử, cách nay khoảng một vạn hai ngàn năm.
     Nền văn hóa Việt cổ này, chúng tôi gọi là kho báu chứa Minh Triết  được kết tinh qua hơn vạn năm của Việt tộc, từ những Sơ nguyên tượng và Tiềm thức cộng thông của Nhân loại, là chất liệu nền móng tạo nên Tòa Tháp Văn Hóa Việt Nam.
     Tinh thần văn hóa thái hòa huyền diệu này nó âm thầm lưu trường trong dòng chảy của dân tộc, nó ngấm sâu vào huyết mạch mỗi chúng ta rất an nhiên tự tại. Hơn thế nữa, nó được nung nấu và thăng hoa trong tâm hồn, trí tuệ và hành động của mỗi kẻ sĩ, đặc biệt trong những kẻ sĩ dũng hoạt và bản lĩnh quyết tâm gìn giữ Hồn thiêng Sông Núi và Hào khí dân tộc. Điều đó lý giải tại sao, một dân tộc nhỏ bé nhưng vẫn đủ tâm lực và trí lực đương đầu với những siêu cường để trường tồn suốt hơn một vạn năm nay. (1)

A.   Thân thế

     Cách đây 290 năm, trên mảnh đất Xứ Đông địa linh đã sinh ra cho Dòng họ, cho Quê hương một Người con, cho Dân tộc một Đại Danh Y, một Nhà Văn Hóa lớn -  Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
     Cổ Liêu Hương, xã Liêu Xá, phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương, nay là làng Văn Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nơi sinh ra Hải Thượng Lãn Ông, tọa lạc trên đất hình quả bầu. Theo ghi chép của Cụ Tràng Thành tức Lê Hữu Hành, Đời thứ 17, trong cuốn “Gia Phả Họ Lê” năm Kỷ Hợi 1959, có dẫn:

  “Vào đời Hậu Lê, Tả Ao Tiên sinh là một thầy địa lý có tiếng, đi qua Cổ Liêu Hương thấy phong thủy đẹp, nào dòng Hồ Lô giang điền uốn quanh, nào gò  đống ẩn hiện vây lấy dải đất hình quả bầu … và kết một câu ”Cổ Liêu cái bầu thiên kim nan cầu” tức vùng đất cái bầu Cổ Liêu ngàn vàng khôn kiếm”.

     Xung quanh Cổ Liêu Hương là những cánh đồng lúa xanh bát ngát và cũng là vựa lúa của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
     Xứ Đông, vùng đất địa linh, gắn bó với cuộc đời và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất nước như Thầy giáo Chu Văn An (1292-1370), Tư Đồ Trần Nguyên Đán (1325-1390), Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330-1385), Danh Thần Nguyễn Trãi (1380-1442), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Diên Hà Bảng Nhãn Lê Quý Đôn (1726-1784)…
     Hưng Yên, trung tâm đồng bằng châu thổ Sông Cái, đắc địa với ý nghĩa vừa Hưng Thịnh vừa Yên Bình được ghi danh vào Quốc sử - Thứ nhất Kinh Kỳ, Thứ  nhì Phố Hiến.
     Cụ Khởi Tổ dòng họ Lê Hữu, các cụ thường gọi là cụ Thủy Tổ dòng họ Lê Hữu gốc Liêu Xá (vì cụ về Liêu Xá sinh sống và phát triển), trong Gia phả ghi:

    ”Lê Quý Công tên chữ Phúc Tiên, là Giám sinh Quốc Tử giám thời Hồng Đức không ghi năm sinh, năm mất. Trong sổ Tiên Hiền của xã có ghi “Quan Giám Sinh hiệu Phúc Tiên là Tiên Sinh họ Lê (tên thứ tư), cách 22 tên ghi tiếp Ông Sinh Đồ hiệu Chinh Tín là Tiên Sinh họ Lê, lại cách 1 tên ghi Ông Sinh Đồ hiệu Chính Đạo là Tiên Sinh họ Lê… ” (Thời Hồng Đức 1460-1497)”

     Lãn Ông xuất thân trong gia đình dòng dõi trâm anh và truyền thống khoa bảng. Lần lượt từ ông nội, đỗ Hoàng giáp, bác, cha, chú, anh và em đều đỗ Tiến sĩ và đều được phong các tước Hầu, Công, Bá và chức sắc quan trọng trong các Triều vua Lê, chúa Trịnh. Tấm bảng vàng ghi rõ trên câu đối nhà thờ Cụ Thượng thư Lê Hữu Kiều:
“Lịch Triều phong tặng Hầu, Công, Bá
Kế thế đăng khoa Phụ, Tử, Tôn ”
               [ Các Triều đại phong tặng Hầu Tước, Công Tước, Bá Tước.
Các thế hệ Cha, Con, Cháu nối tiếp nhau đỗ đạt Đại khoa].

I. Trau dồi Văn nghiệp

      Lớn lên từ nếp gia phong, ảnh hưởng sâu sắc nền giáo dục Nho Giáo. Và chính cái nền giáo dục chính thống từ tinh thần văn hóa dân tộc nguyên bản ấy đã vun đắp nên nhân cách cậu bé Chiêu Bảy sau là chàng thư sinh Thuần Chẩn với những tư chất tài năng vượt trội để nuôi chí lớn.              
     Chàng thư sinh Thuần Chẩn với đức tính ham học, miệt mài chuyên sâu Dịch lý, Tứ Thư, Ngũ Kinh, thiên văn, địa lý, phong thủy, độn số, văn chương, quân cơ, võ bị, tu luyện thể chất và tinh thần để hoàn thiện các chuẩn mực giáo dục nhân cách của xã hội đương thời như cầm, kỳ, thi, họa.
      Những năm bốn mươi đến nửa cuối của thế kỷ XVIII, nước Đại Việt trong bối cảnh có nhiều biến động lớn, vua Lê ở thời mạt, Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước lâm vào nội chiến loạn lạc.

     Trong cuốn Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã cực tả cái hình ảnh “Hỗn loạn Canh Thân, Tân Dậu (1740-1741), khắp một vùng rộng lớn, người chết vạ vất đầy đường, người đói phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn, có khi ăn thịt lẫn nhau. Số phận của nhiều hạng người bị đảo lộn, ngay cả những bà góa, tiền của chất như núi cũng chịu ôm tiền mà chết …”

     Đó là câu chuyện những năm chàng trai Thuần Chẩn chưa đầy hai mươi tuổi.
Cũng vào thời gian đó, chàng thư sinh họ Lê còn được chứng kiến trong những biến cố đặc biệt nổi trội, đó là các phong trào khởi nghĩa của nông dân từ Bắc chí Nam. Chỉ tính trong vòng mười năm, suốt từ Nghệ An đến Hải Dương, đã có ngót hai mươi thủ lĩnh nông dân liên tiếp nổi dậy.
Đây là thời kỳ bùng phát tâm lý “Lòng người ước ao loạn lạc”(?). Thời đại mà số phận của những ông chúa thần quyền nghiêng thiên hạ, bỗng dưng bị tung lên, hất xuống trong tay đám kiêu binh chẳng khác trò đùa. Còn nhân dân thì không cam tâm ngồi chờ chết, quyết vùng lên đánh cược với số phận, ra đâu thì ra. (2)
     Đây là một dấu ấn bi kịch lịch sử khó quên.

II. Rèn luyện Võ công

     Chàng thư sinh Thuần Chẩn lại nghe tiếng vọng: “Binh lửa khắp nơi, con trai thời loạn há chịu ngồi mãi trong thư phòng sao???”. (Tựa Y Tông tâm lĩnh)
     Chàng thư sinh liền bỏ văn học võ, theo học Binh Thư Võ Bị suốt hai năm, các môn Thiên-Nhân, Âm-Dương thuyết  áp dụng vào binh thư, luyện võ nghệ, bài binh bố trận đều thông suốt. Từng là môn đệ của Võ Sư họ Vũ ở làng Đặng Xá. Ngay sau đó, tòng quân gia nhập quân đội Triều đình thời Lê Trịnh. Ngài đã từng bầy binh bố trận, đánh đâu thắng đó, giành chiến công lớn, được cấp trên ghi nhận và tỏ ý muốn thăng quan và ban thưởng. Nhưng Ngài đã từ chối khéo vì đã nhận ra chân tướng của cuộc chiến huynh đệ tương tàn vô nghĩa. Binh lính cũng là nhân dân đều thiệt mạng để vua chúa hưởng lợi.

B. Sự nghiệp
                                                                                                                   
I. Khởi đoan Y Đạo

   Ngẫm lại lời tự thuật: “Tôi vốn là con nhà dòng dõi trâm anh, thuở nhỏ thường chăm chỉ sách đèn, những muốn làm nên sự nghiệp lớn…” (Thượng Kinh Ký Sự).
     Vậy sự nghiệp lớn là gì khi cố gắng chăm chỉ đèn sách để thi đậu rồi làm quan trong một thực trạng xã hội rối ren đang ở bờ vực của suy tàn thì không phù hợp với tâm chí. “… tôi chạy nay đây mai đó, không thể làm người cao đạo trong đời loạn, học thói giàu có trong cái năm nghèo đói được.”  (Tựa Y tông tâm lĩnh).
   Thật là một nan đề lớn của cuộc đời.

     Ở đây ta nhớ lại giai thoại “Cuộc gặp gỡ giữa hai nhà bác học”.         
     Lê Hữu Trác và Lê Quý Đôn cùng dự thi Hương ở Sơn Nam Hạ năm Quý Hợi 1743. Kỳ thi trong bốn ngày bắt đầu từ mùng 8 đến 28 tháng 8.
Đầu đề bài văn sách như sau:
“Cai trị thiên hạ nên có phương pháp: chăm sóc đời sống cho dân, cẩn thận về các chính thể, kén chọn tướng có tài, nghiêm túc việc dùng quân. Đều là những việc trọng yếu của việc cai trị đó”.
     Quyển thi của Lê Hữu Trác được nộp lên. Các quan trường xem ai nấy đều khen ngợi, nêu tinh thần rất xác đáng, lời bàn thấu đáo, rõ ràng. Nhưng nếu vị giám khảo  nào tinh ý cũng đều nhận thấy ẩn hiện một nỗi niềm đau xót, chán chường trước thời cuộc hiện tại trong bài thi. Cuối cùng Lê Hữu Trác chỉ trúng Tam Trường, Lê Quý Đôn đỗ Giải Nguyên. (3)

     Có nhiều bình luận về sự kiện này trong bước ngoặt cuộc đời Lãn Ông, đa số cho rằng, vì chán cảnh thế sự rối ren nên Ngài bẻ tên, cởi giáp đi về ở ẩn, âu cũng phù hợp với cái tâm lý tránh bon chen của kẻ sĩ “Thời trị làm quan, thời loạn ở ẩn”(?).
     Nhưng sự thực không phải vậy, một mặt vì nuối tiếc công lao đèn sách, thế sự rối ren, chí lớn không đạt (?), mặt khác Lãn Ông lúc đó gặp phải sự cố gia đình khi có tin người anh trai Lê Hữu Đề mất sớm, để lại ba đứa con thơ và mẹ già đã bảy tuần ở chốn quê Hương Sơn. Lãn Ông liền bẻ tên cởi giáp trở về quê chịu tang anh, phụ dưỡng mẹ già và đàn cháu nhỏ.                                           
     Ngài nuối tiếc: ”Tuy đã mải miết lo toan ngược xuôi, việc mài gươm tuốt kiếm, đọc sách, khí hồng nghê muôn trượng khó bề thực hiện, khi ấy tôi có bài thơ ngẫu cảm:                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                           

“ Thập niên ma nhất kiếm
Phong nhận chính quang mang
Sát khí xung ngưu đẩu
Uy nghiêm động tuyết sương
Nhập Tần kỳ bất khả
Quy Hán diệc vị hoàng
Hải hồ không phiêu đãng
Tráng chí thành đại cuồng.
Dịch:
Mười năm mài lưỡi kiếm
Mũi nhọn tỏa hào quang
Sát khí xông Ngưu Đẩu
Oai hùng động tuyết sương
Vào Tần đã chẳng được
Về Hán cũng chưa màng
Biển hồ trôi dạt mãi
Chí lớn thành cuồng ngông.”
Lãn Ông tiếp dẫn:

     “Ngờ đâu trăm điều ràng buộc, tâm lực ngày một hao mòn, bị bệnh nặng mất vài năm. Sau đi tìm được thầy Trần Độc ở núi Thành để nhờ chữa bệnh (thầy Trần ở làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, tinh thông kinh sử nhưng thi không đậu, sau về ở ẩn làm thuốc rất thạo). Độ hơn một năm, có một hôm nhân lúc rỗi rãi tôi ngồi mở đọc sách Cẩm Nang Phùng Thị, những chỗ sâu sắc về dịch lý âm dương trong sách thuốc đều thấu suốt cả. Thầy Trần thấy tôi có năng khiếu bèn muốn dốc hết cả kiến thức của thầy cho tôi. Khi ấy tôi chưa quyết tâm học, nhưng trong khi bàn luận về những chân lý bí ẩn cũng có những điều hiểu biết thấu đáo. Vừa khi ấy, Hải tướng quân đang vây quân địch ở vùng Bào Giang. Bè bạn tòng quân nhiều. Có người đề bạt tôi, rồi tướng quân cho đem lễ vật tới triệu mời, nhân đó tôi mới yết kiến ở cửa quân. Tướng quân  bí mật bàn giao cho tôi đem đem quân dạt biển, quặt phía sau lưng địch từ phía Cao Châu xông ra, đánh úp viện quân của địch. Ngài lại nhủ rằng, việc bái tướng phong hầu chính là ở chuyến này.
Tôi thầm nghĩ, trường đời danh lợi đã gửi cho nước cuốn mây trôi từ lâu rồi, liền cố ý từ chối vì còn mẹ già không thể đi xa được.” (Tựa Y Tông tâm lĩnh)

     Thế là y nghiệp bắt đầu từ đây. Ngài về Hương Sơn, làm nhà dưới rừng, quyết chí học nghề y. Tìm tòi sách vở, miệt mài ngày đêm, vô cùng khó khăn vì không có thầy hay đồng nghiệp để hỏi han, trao đổi, duy chỉ có cách tự vấn và tự đáp qua thực tiễn.
     Đến lúc cần nâng cao, đã từng lên Kinh tìm thầy nhưng không có duyên để gặp thầy giỏi, sách hay rồi ngậm ngùi trở về chốn quê.
      Về lại Hương Sơn, Ngài lấy biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông,
Lãn Ông nghĩa là Ông Lười không sống theo lối “Khảng khái tùng Vương dị“ mà là Ông Siêng theo lối “Thung dung tựu nghĩa nan”, nên ông già Lười xứ Hải Thượng không màng danh lợi
, nhưng để  vừa dày công nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, vừa tận tâm chữa bệnh cho mọi người, sau mười năm, tiếng tăm đã nổi tiếng khắp vùng Châu Hoan.
     Năm Bính Tý 1756, Lãn Ông lên Kinh Đô Thăng Long để tìm thầy cao minh và tinh thông nghề thuốc mong muốn học hỏi nâng cao tay nghề và trình độ y lý, nhưng duyên không thành. Nhân cơ hội gặp lại Diên Hà Thừa Chỉ Lê Quý Đôn sau mười ba năm cách biệt, hai tư tưởng lớn đều thành danh vui mừng khôn xiết, tâm đắc chuyện trò, xướng họa thơ ca, trà dư tửu hậu … Một thành danh nơi quan trường, một ở chốn núi rừng thâm sâu cùng cốc, cũng nổi danh như một đại y sư, tiếng vang vọng tới triều đình. Hai quan điểm sống trái ngược nhưng vẫn đạt đỉnh thành tựu trong cuộc đời.
Giây phút chia tay nhau, Hàn lâm viện Thừa Chỉ Tiên Sinh than vãn :

“Giữa thời buổi người ta xô chen giẫm đạp lên nhau mà chết chốn trường thi, thế mà bác Thuần Chẩn một người tài cao, học rộng lại không màng gì với công danh, phú quý để trở thành lão già lười đất Hải Thượng, tinh thông y lý, chuyên tâm trị bệnh cứu người thì quả là một sự lạ lùng!” (4)

     Đây là dấu ấn đáng nhớ trong lịch sử Việt Nam về tình bạn tri âm, tri kỷ quý hiếm giữa một Đại Danh Y và một Danh Thần Bác học. Hai tư tưởng, hai bản lĩnh, hai trí tuệ và hai con đường khác nhau, nhưng cùng đến một đích nhân đạo và nhân bản – Chân, Thiện, Mỹ.
     Điều đó chứng tỏ Lãn Ông đã không tìm nơi nương thân ở ẩn, ngược lại cố tránh xa Cửu trùng để yên thân an hành chính Đạo. Lãn Ông không xuất thế, tức từ bỏ đời thường, không nhập thế, tức vào quan trường để màng công danh, mà Ngài đã vượt lên cả hai hành động xuất và nhập để an hành xử thế. Bởi bản chất Đạo Việt là xử thế.  An vi chính là an hành, là hành động an nhiên tự tại, thái hòa, hành động pháp tự nhiên để thành tựu, trái với cưỡng hành ở những cộng đồng cá lớn nuốt cá bé và lợi hành ở những cộng đồng nặng về tư lợi, ích kỷ.

II. Dịch Lý

     Lãn Ông sinh ra, lớn lên và được học hành trên nền tảng giáo dục Nho giáo truyền thống với một tri thức cơ bản và toàn diện . Một trong những chìa khóa quan trọng nhất để tiếp cận và khám phá thế giới tự nhiên và xã hội đó là Dịch lý về Âm Dương Ngũ Hành cũng gọi là Thiên lý. Trong lời tiểu dẫn cuốn “Y gia quan miện”, Ngài dẫn lời di huấn của các bậc hiền triết xưa: “Học Kinh Dịch đã rồi mới có thể nói tới việc làm thuốc”, làm nghề y mà không tinh thông Dịch lý thì chớ có theo mà uổng công vô ích. Bởi Dịch lý là Đạo Trời, Đất, Người, không hiểu nó thì khác nào tìm chim đáy biển, tìm cá trên trời. Lãn Ông hướng dẫn cách học Kinh Dịch như thế nào để nắm được gốc rễ và bản chất của môn học.

      Ngài tiếp: “Nhưng nói Kinh Dịch không phải là học các hào, các quẻ hay thoán/soán từ của Kinh Dịch mà chỉ cần nắm được quy luật biến hóa của Âm Dương, sinh khắc của Ngũ hành tựa như vòng xoáy chôn ốc không đầu, không cuối, Động Tĩnh đều chung một lẽ duy nhất bởi, trong Trời Đất, vạn vật từ các loại sinh con hay đẻ trứng, hình hóa hay khí hóa, côn trùng hay thảo mộc loài nào cũng đều bẩm thụ được tinh túy của Ngũ hành rồi mới có sự sinh trưởng. Huống chi con Người là loài khôn hơn vạn vật, hấp thụ được toàn bộ tinh túy Âm Dương, đầy đủ phát dục của Ngũ hành… mà không tinh thông Dịch lý và Âm Dương Ngũ Hành thì làm sao mà hành nghề y, chữa bệnh cứu người.” (Tiểu dẫn Y Gia Quan Miện)

     Cho nên, Lãn Ông đưa mục Âm Dương Ngũ Hành lên đầu sách rồi lần lượt đến các bộ vị tạng, phủ, kinh lạc, mạch yếu … để mở đầu cho việc bước vào nghề y.
Từ nhãn quan vũ trụ động, Lãn Ông đã chiếm lĩnh chìa khóa Dịch lý để tiến xa hơn tới chân trời khoa học, đi sâu nghiên cứu các triết thuyết cổ nhân mà ngày nay gọi là những môn khoa học cơ bản như: thuyết Ngũ Hành Âm Dương, Minh Triết-Triết lý Phương Đông, Đạo Nguyên Nho, Phật Pháp (Thiền), Y lý, Thiên văn, Độn số, Địa lý, Văn chương, Thơ phú, Binh pháp, quân cơ … làm cơ sở vững bước vào thực tiễn nghề y.

     Cổ nhân phương Đông ta có câu “Ngắm trời mà minh thời” rồi “Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu nhân tình”, mới mong thành tựu (5), là kinh nghiệm được truyền miệng từ văn hóa vạn năm để muôn thế hệ biết bảo nhau mà trau dồi kiến thức. Đây là một trong những tinh thần của môn Vận Khí, Tam Tài Bí Chí, Vận Khí Tầm Nguyên kết hợp với Dịch lý để Lãn Ông viết thành cuốn “Vận khí bí điển”.
     Nắm bắt lời dạy của tiền nhân, Lãn Ông tập hợp được kiến thức xưa và thuật lại nguyên văn, sau mới có lời bình xét ở đoạn kết. Một tinh thần công minh trong học thuật và học tập đáng ghi nhận và noi theo.
     Một trong những biệt tài của Lãn Ông là cách tìm huyệt đất và long mạch trong thuật phong thủy, làm các nhà phong thủy ngày nay ngả mũ thán phục. Tìm hiểu Lãn Ông, chúng ta thấy cách bài trí nhà cửa, sân vườn trong khu vườn đào nơi Lãn Ông và gia đình sinh sống. Ta thấy Lãn Ông bố trí một trật tự phong thủy hài hòa để sống khỏe và hành nghề, ngoài khu ở, tiếp khách, chữa bệnh, lầu Tỵ huyên (nơi yên tĩnh), nhà Di chân (nơi vui thú tự nhiên) còn có đình nghênh phong để đón gió, vọng khí, có hồ bán nguyệt và hòn non bộ, nuôi chim để nghe  hót, bên hồ cắm một cây sào và buộc diều để nhìn hướng gió, nghe sáo diều để biết lực gió.
     Thử xem Lãn Ông tìm huyệt đất và long mạch thế nào. Lãn Ông bắt đầu bấm độn, xem ngày giờ, quan sát thời tiết và vọng gió. Đúng giờ và cho thả diều, diều bay và rơi chỗ nào thì đó chính là cái mình cần tìm. Đây là một môn học rất khó bởi tính độc đáo và chuyên biệt, nó kết hợp cả khoa học thực nghiệm và tâm linh. Thực ra, tâm linh cũng chẳng khó hiểu, nhưng đòi hỏi phải có một trực giác nhạy bén và sinh động, sử dụng giác quan thứ sáu để nhận biết cái tượng, cái tướng hay cái hồn của sự vật, hiện tượng, sau đó dùng các dụng cụ, lý thuyết kể trên để hành sự, sau cùng là kiểm chứng kết quả. Thuật này, Lãn Ông tuân thủ và áp dụng đúng nguyên lý ”Tại Thiên thành Tượng, tại Địa thành Hình” của Dịch Lý. Việc này không thấy có “Âm vận khí án” (?).

III. Mạch sống ngầm Dân tộc

     Đến nay nhiều người vẫn cứ tin Nho giáo là do Tàu truyền dạy cho Tổ tiên ta, nhưng qua sự khai quật của Triết gia Kim Định (1915-1997) thì ngược lại, tuy Việt và Tàu  có chung một nền Văn hoá vì đa số dân Tàu đều thuộc chủng Việt do người Tàu thôn tính Bách Việt mà sáp nhập vào.
     Nho giáo được thai nghén từ nền Văn Hóa Hoà Bình, qua Thao thiết về Vũ Hóa và Hóa Long, tới thời Tam Hoàng, rồi Nguyên Nho của Khổng Tử, mà Nguyên Nho lại  do Đức Khổng “Tổ thuật  từ nền Văn hoá phương  Nam của Đại chủng Việt.”    
Nước Tàu mới được thành lập sau này vào thời  Đế Kỷ (2697 TCN) với thủ lĩnh Hiên Viên Hoàng Đế, sau  họ Hồng Bàng 182 năm, thuộc Hoàng Kỷ (2879 TCN).  
     Nền tảng của  Nho giáo là Dịch lý, mà Biểu tượng là “Tiên Rồng gặp nhau trên Cánh Đồng Tương“  nét Lưỡng nhất này xuyên suốt nền Văn hoá Việt .
     Trong  các cuộc xâm chiếm Việt Nam, khi nào người Tàu cũng tịch thu sách vở, thu gom trống đồng, bắt hết nhân tài, nên Tổ tiên Việt, một mặt đã đem tinh thần Nho vào Văn chương truyền khẩu như Ca dao, Tục ngữ, cùng các Truyền kỳ để giúp cho người bình dân Chất gia trau dồi Nhân Nghĩa; mặt khác về phương diện Nho gia gọi là Văn gia thì Tổ tiên chúng ta cũng đã cất dấu nền tảng Nho trong Huyền thoại Tiên Rồng, trong  Linh cổ Trống Đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ, người Tàu  tuy chiếm được  Văn hoá nhưng chỉ hớt được cái ngọn 64 quẻ Dịch phần nhiều chỉ dùng để bốc phệ  (bói toán), nhâm cầm độn toán, mà không mò ra được triết lý Nhân sinh trong Nho, đó là cái tinh túy của Nho. Nhìn qua vật biểu của Tàu và Việt thì rõ, trong khi vật biểu của Việt là Tiên Rồng tức là Âm Dương, là nền tảng của Dịch, còn vật biểu của Tàu thời Hiên Viên là chim Cú, đời nhà Thương là Bạch mã là phương tiện di chuyển của Du mục, rồi  Đến đời Nhà Hán mới nhận Rồng, Rồng là Đực rựa,“ Độc Dương bất sinh “
Từ nền tảng đó mà hai nền Văn hoá Việt Tàu khác nhau : bên Việt thì “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo“, còn Hán Nho của Tàu thì “Dĩ Cường lăng Nhược“.
Đây là sự phân biệt nền tảng, nên khi đánh chiếm, người Tàu tịch thu sách vở bắt cống nhân tài để huỷ diệt Văn Hoá Việt, nhưng  mọi âm mưu tiêu diệt Văn Hoá của Tàu đều thất bại, dù không  có sách vở, nhưng mạch sống dân tộc đã được kết tinh trong văn chương truyền khẩu như ca dao, tục ngữ, các truyền kỳ…, mạch sống Nhân Nghĩa bình dân này cứ ngầm cuộn chảy trong huyết quản dân Việt, do đó mà hơn bốn ngàn năm Tàu không bao giờ khuất phục nổi.  
     Hải Thượng Lãn Ông là  một Văn gia, nhưng lại sống với Bình dân nơi thôn dã, nên hai dòng Văn hoá  Văn gia và Chất gia  kết tụ nơi Ngài, nên Ngài trở thành con Người Nhân chủ  ( Hùng Vương ) là Tinh hoa của Trời Đất, của Tiên Rồng. (6)
     Con người là chủ thể đồng thời là đối tượng của các quan hệ tự nhiên và xã hội.
Nhân sinh quan của Đạo Việt biểu hiện trong con người và nhân cách Lãn Ông.
     Con người và Nhân cách Lãn Ông là tổng hòa các nét đẹp thiên nhiên, dân tộc và Văn Hóa Thái Hòa Việt Nam, với những nét đặc trưng :   
Nhân Chủ, Thái Hòa, Tâm Linh, những đặc tính này xem ra luôn bám sát suốt cuộc đời và sự nghiệp của Ngài.
     Nền Văn Hóa Thái Hòa này đặt trên nền tảng Âm Dương hoà, cũng là nền tảng của Y lý, từ Âm Dương phát triển qua Tứ Tượng, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư, Cửu Trù, Hồng Phạm. Đồ hình và số độ Ngũ hành được dùng như Biểu tượng để diễn tả lò Tạo hóa/Tạo hóa lư hay bộ máy Huyền cơ để khám phá ra Thiên lý của Vũ trụ hòa.
Ngoài  Đồ hình và Số độ của Ngũ hành, đồ Hình Lạc Thư cũng diễn tả sự tạo Thiên lập Địa chẳng khác nào Thời - Không - Liên của Einstein, chỉ khác nhau ở chỗ bên Lạc Thư thì dùng cặp đối cực  Lẻ/Chẵn, còn Einstein thì dùng cặp đối cực Thời gian/Không gian.

C.  Cơ cấu Văn Hóa Đông Nam
I. Dịch: Nghịch số chi lý

                                                                                      Nam
                                 Hỏa                                                2
                                   │                                                  │
                   Mộc ― Thổ ― Kim                 Đông 3 ― 5 ― 4 Tây
                                   │                                                  │
                                Thủy                                               1
                                                                                       Bắc

Đồ hình và số độ  Ngũ hành

     Để hiểu Dịch Lý chúng ta phải vận dụng đến Đồ hình Ngũ hành. Ngũ hành có 4 hành xung quanh, ghép thành hai cặp đối cực :
     *Cặp đối cực hàng Dọc Thuỷ Hỏa, tượng trưng cho Nước Lửa. Nước được gán cho là nguồn gốc của Vạn vật (Thuỷ : vạn vật chi nguyên) là nguồn sống, Hỏa được xem là nguồn sáng. Hai hành đều là nguồn Năng lượng/Vật chất .
     *Cặp đối cực hàng Ngang  Mộc Kim tượng trưng cho sinh vật và khoáng chất.
Do tương tác với nhau mà các cặp đối cực tạo nên Vạn vật, cho nên khung Ngũ hành có thể xem như lò Tạo hoá hay Tạo hoá lư, tức là thế giới Hiện tượng, thế giới Hữu (4 hành xung quanh).  Các cặp đối cực đạt tỷ lệ quân bình động theo tỷ lệ 3/2 : Đông/Nam (Tham Thiên lưỡng Địa nhi ỷ số).  Đó là cơ cấu  của nền Văn Hoá Thái Hoà Đông Nam của Đại Chủng Việt.
     *Còn Hành Thổ ở giữa đóng vai trò Dung hóa giúp cho các cặp đối cực hoà hợp mà biến hoá khi đạt trạng thái quân bình động, Thổ tượng trưng cho Thế giới Vô. (Hành Thổ ở giữa, xem sau).  Người Tàu không bàn tới những thứ nền tảng này.
     Lấy một ví dụ, đun nước bằng nồi đất hay nồi kim loại để uống, để thấy cặp đối cực tương khắc Thủy Hỏa, nhưng thông qua trung gian Thổ hay Kim mà đạt hiệu quả bình thường. Mặt khác, khi các cặp đối cực tương khắc trực tiếp giao nhau, có hai trường hợp xảy ra, một là xảy ra xung lực ở trạng thái nổ, vỡ tung hay tan rã, hai là hòa với nhau, tức“Âm Dương tương thôi“ để đạt trạng thái “Âm Dương hòa” mà Biến hoá.
     Đây là sự vận động tự nhiên của vạn vật trong vũ trụ, luôn luôn tồn tại theo quy luật hỗ căn tức nương tựa vào nhau, tiêu trưởng lẫn nhau rồi hòa với nhau để đạt thế Quân bình động.
     Cho nên, có đồng hóa và dị hóa, có ức chế và hưng phấn thì mới phát sinh và phát triển.  
     Trong y học truyền thống chúng ta thấy có những sự tương tác thường xuyên của cơ thể con người, thời tiết và các vị thuốc như: tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ.
     Các Thiên thể trong Không gian nhờ  sự quân bình giữa sức Ly Tâm và Quy Tâm, mà di chuyển không ngừng trong Không gian. Trong Vũ trụ nhìn đâu chúng ta cũng thấy sự biến hoá bất biến của các cặp đối cực.

 II. Thái  hòa

     Thái Hòa là sự giao hòa của các cặp đối cực  của vạn vật tồn tại trong Vũ trụ , các cặp đối cực như Âm-Dương, Khôn-Càn, Cái-Đực, Lẻ-Chẵn, Tụ-Tán, Tĩnh- Động, Tình-Lý, Yêu-Ghét… Các cặp đối cực như Âm Dương là Nghịch số, Dịch lý là  Lý  của “Âm Dương hoà“, Đó là Nhất lý, có “Nhất lý thông“ , thì “Vạn lý minh“.
     Theo quy luật “Tham Thiên Lưỡng Địa nhi ỷ số“ (hai-ba/ba-hai),là độ chênh lệch giữa đối cực ít nhất, nên có thể xô đẩy níu kéo nhau để tạo nên thế quân bình động, nhờ thế mà Tiến hoá và Trường tồn, tạo nên cảnh Thái hòa.
Tỷ lệ cân bằng là vài ba (2 Đất 3 Trời hay 3 Tình 2 Lý ) hay Tham thiên lưỡng Địa (3 Trời 2 đất, 2, 3 là con số co dãn tuỳ từng trường hợp, không phải là con số Toán học, bởi vài ba khác 2, 3 ).
    Ví dụ như Big Bang (centrifugal) gây ra sự Dãn nở, tức là sức Ly tâm  cần được cân bằng với sức hấp dẫn vũ trụ, tức là sức Quy tâm (universal attraction: centripetal), hai lực đó có đạt trạng thái quân bình động thì các thiên thể được treo lơ lửng trên không và di chuyển theo hướng vô cùng vô tận.
Số 2 được mang ý nghĩa Thái Hòa, Nho đã dùng biểu đồ Thái cực viên đồ, (biểu tượng Âm Dương trong hình tròn). Khi các cặp đối cực đạt thế Quân bình động thì Âm Dương hoà, nghĩa là Thái hòa.   
     Thái hòa, giản dị là biểu hiện của đạo xử thế An vi - Nhân hoà qua Tình Lý hài  hòa, khi đạt nhịp sống Thiên sinh, Địa dưỡng,  Nhân hoà thì có  Hòa bình.
     Lãn Ông đã sống an bần lạc đạo, ứng xử như Đạo Lạc/Đạo Nước/Đạo Nác của Tổ Tiên Lạc Việt. Sống và ứng xử  sao cho  Nhu – Cương được kết hợp như Nước thì đã đạt chân lý rồi.
     Hãy xem phong cách Lãn Ông có phải là Lạc dân /dân nước xuất thân từ quê hương lúa nước? Có phải Lãn Ông thường uống nước mưa, tắm nước sông, bắt cua cá trên ruộng  lúa nước, để rồi uyển chuyển, mềm mại như nước (như câu ví “Anh hùng khi gặp khúc lươn, khi Cuộn thì Vắn, khi Vươn thì Dài”).
Hễ cần thì mạnh mẽ như hồng thuỷ, cuốn trôi mọi rác rưởi, bình thường thì cuộc đời an nhiên tự tại như gió heo may thoảng trên Trời trong, hay dòng nước lững lờ bên suối vắng.

III. Nhân chủ

     Nhân Chủ là hệ quả của cặp đối cực Thiên/Địa kết thành, Thiên: 1 (Lẻ), Địa: 2 (Chẵn) , Nhân : 3 (1+2 = 3). Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân, Tài Nhân cũng ngang hàng và bình đẳng với hai tài Thiên, Địa, bởi con người cũng là một Tiểu Vũ trụ.
     Bài vịnh Tam tài của Chi sĩ Trần Cao Vân cho chúng ta hiểu rõ về Tam tài :

Trời Đất sinh Ta có Ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất  ba Ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ Đồng
Đất nứt, Ta ra, Trời chuyển động
Ta thay Trời, mở Đất mênh mông
Trời che, Đất chở, Ta thong thả
Trời , Đất, Ta đây, đủ Hóa công.

     Vấn đề quan trọng của con người là định được vị trí của mình trong vũ trụ.
Nếu bị kéo lên Trời thì bị phụ thuộc và làm nô lệ cho Thần Thánh, lúc đó trở nên nhỏ bé, bất lực và chỉ biết có nài nỉ, cầu xin. Rơi vào Duy Tâm.
Nếu bị Đất đạp xuống thì hóa vật chủ, làm nô lệ cho vật chất, ngược với Trời/ chống Trời. Rơi vào Duy Vật.
     Còn thứ nữa là Duy Nhân, trên đời con người chỉ biết có mình, không coi Trời cao Đất rộng ra gì, con người quá to lớn (coi trời bằng vung). Rơi vào Duy Nhân.
     Chỉ  khi con người giữ được vị thế cân bằng động giữa Trời và Đất thì không Duy Tâm, chẳng Duy vật, cũng chẳng Duy Nhân, không rơi vào đâu cả mà vượt lên cả ba thứ đó để thành con người Nhân Chủ. Con Người có đạt được vị thể cân bằng giữa cặp đối cực Trời Đất  thì mới Tự chủ, muốn duy trì vị thế tự Chủ thì phải  tự Lực và tự Cường, nhờ đó mà  con người có khả năng làm chủ đời sống mình gia đình mình và đất nước mình. Đây là vấn đề hệ trọng nhất của con người. 
(Đất nước chúng ta đã thất bại vì không duy trì được vị thế của con người Nhân Chủ này.) (7)
     Ngay từ khi còn là chàng thư sinh đi thi Hương, tinh thần nhân chủ đã thể hiện rất rõ trong con người Lãn Ông. Đó là cảm nghĩ về thế sự rối ren được mô tả trong phần cuối của bài thi.
     Đó là gác bút nghiên theo học võ bị, quân cơ, bầy binh bố trận … Đến bước ngoặt quan trọng là cởi giáp bẻ tên trở về nơi thâm sâu cùng cốc, vui thú cùng núi rừng, làm thuốc chữa bệnh. Và cứ như thế, con người nhân chủ luôn luôn an nhiên tự tại vững bước trên chính đôi chân vạn dặm của mình tới cõi vô cùng.

IV. Tâm linh

Số độ Ngũ hành

     Để tìm hiểu về Tâm linh  chúng ta phải dùng Số độ Ngũ hành.
Theo số độ của Ngũ Hành , nếu ta vẽ  4 ô :   ô  Thuỷ (1); Hỏa (2), Mộc (3), Kim (4) bao quanh ô Thổ (5) ở giữa. Khi tách 4 ô xung quanh ra thì ô 5 trống không , nên Thổ (số 5) tượng trựng cho Vô (Tâm linh). Qua đó chúng ta có thể gọi 4 ô xung quanh là thế giới Hữu, thế giới Hiện tượng có tính chất Động, còn ô giữa là thế giới Vô, thế giới Tâm linh, thế giới Tĩnh.
     Khi ra sống ngoài thế giới Hiện tượng chúng ta phải dùng Lý trí để Ly Tâm hay ”Suy Đi“, còn khi quay về thế giới Tâm linh thì phải Quy Tâm hay “Nghĩ Lại“ để mà Tu Tâm hầu cảm nghiệm, rồi thể nghiệm Thiên lý. Thế giới Tâm linh (Tĩnh) và Hiện tượng (Động) cũng là cặp đối cực của Thái cực. Khi cặp đối cực của Thái cực Âm Dương kết thành Lưỡng nhất thì là VÔ CỰC, tức là
“Đại Đạo Âm Dương hoà“. VÔ này là Chân không diệu hữu, chứ không là cặp đối đãi Vô - Hữu nữa.
     Tóm lại, nền Văn hoá Việt không chỉ có văn học, nghệ thuật, mà là một Triết lý Nhân sinh gồm:
          1. Một Vũ trụ quan Động, biến hoá theo Dịch lý
          2. Một Nhân sinh quan Nhân chủ, Thái hòa
          3. Một Đạt quan Phong Lưu, An nhiên tự tại.
     Hải Thượng Lãn Ông quả là một con người Toàn diện.  (8)


V. Y Lý cũng là Dịch Lý  “ Âm Dương Hoà “ 

     Tâm linh của Đạo Việt là huyền diệu, vi diệu chứ không huyền ảo, bởi nó xuất phát từ nguyên lý Dịch, Đạo Trời Đất nên hội tụ đầy đủ những quy luật tự nhiên của vũ trụ được  ăn sâu vào tinh thần văn hóa Việt tộc.
     Con người là một Tiểu Vũ trụ, nên cũng là một bộ máy huyền vi, sinh lý của cơ thể con Người cũng tuân theo Dịch lý.  Khi mọi cơ quan trong con Người đạt thế Âm Dương hoà thì khỏe mạnh, ngược lại thì bị bệnh tật.  Cái khó  của  Lương Y là làm sao  cho bộ máy  Âm Dương huyền diệu “ bất hoà “  trở thành
“ hòa “.
     Lãn Ông đã dùng Dịch lý một cách điêu luyện để chẩn mạch và bốc thuốc. Ngài đã áp dụng sáng tạo từ những phương pháp chữa bệnh, bốc thuốc kinh điển của cổ nhân thành những phương pháp chữa bệnh và phương thuốc mới phù hợp với hoàn cảnh khí hậu và con người Việt Nam.

     Làm thế nào mà Lãn Ông lại có những phép thuật huyền diệu như vậy. Nếu không có cái chí dũng hoạt, bản lĩnh nhân chủ và trí thông minh mẫn duệ thì làm sao có thể tiến sâu vào bể y học mênh mông với một khối lượng đồ sộ trước tác, sách vở Đông Tây Kim Cổ. Thế rồi đọc, học, tự vấn, tự đáp rồi nhập tâm thì vẫn chưa đủ, vấn đề ở chỗ phải rút gọn, lược bỏ rườm rà, cô đọng, biến hóa và biên soạn thành sách để người đọc dễ tra cứu, khi đó cái sở học mới hanh thông.

    “Mọi (sở học) phải sáng rõ, dung hóa, tùy cơ ứng biến, thâu nhập vào tâm, thấy rõ ra được ở trước mắt; (có thế) thì tự nhiên ứng vào tay mà không phạm sai lầm” (Tập Y huấn cách ngôn).

     Có nhiều vấn đề sau khi nghiên cứu, tìm tòi, Lãn Ông không thỏa mãn với những giải đáp có hạn trong sách vở, Ngài phải tự tìm đến tận gốc rễ mới thôi. Lãn Ông tâm sự:

    “Tôi muốn sao cho sự hiểu biết (của mình) đến nơi đến chốn mới khỏi hổ thẹn. Nhưng vốn đã không có tài thiên bẩm, lại không có thầy dạy, nên sự học càng thêm thụ động lại quê mùa. (Vậy mà) đành phải ôm lấy cái chí đi đến cội nguồn (học vấn), chứ đâu có chịu rơi vào cảnh lạc đường giữa bể học mênh mông không có bến bờ” (“Phàm lệ” Y tông tâm lĩnh) (9)

    Trên cơ sở Dịch lý vững chắc, Lãn Ông thẳng thắn phê phán những thầy thuốc thấp tay và thiếu trách nhiệm khi bó tay trước bệnh nan y hay khó chữa, rồi thoái thác cho “mệnh”. Ngài đã đề cao tinh thần“Đức năng thắng số” để khích lệ tính tự chủ, tự tin và quyết tâm vượt khó. Từ đó xóa bỏ lối nghĩ, quan niệm giáo điều và hủ tục lạc hậu làm cho y đạo thêm sáng.

     Năm Canh Thìn 1760, Lãn Ông mở trường dạy học, đào tạo thế hệ thầy thuốc tương lai. Viết sách, khao khát cái kiến thức hèn mọn của mình được phổ biến rộng rãi, vô tư, không dấu diếm. Lãn Ông suy tư, việc trước thư lập ngôn không phải là chuyện dễ, ngạn ngữ có câu: “Cho thuốc không bằng cho phương” bởi, cho thuốc chỉ cứu được một người, còn cho phương thì để lại điều Nhân mãi mãi. Ngài  suy nghĩ và cân nhắc rất kỹ lưỡng. Đặc biệt, nêu ra những sai lầm của những danh y thời trước để rút ra bài học kinh nghiệm cho đời sau.
     Đây là tư duy khoa học tiến bộ, thể hiện tư tưởng khai sáng, là nguồn cảm hứng cho những ý tưởng sáng tạo trong mỗi ngành khoa học ở mọi thời đại.  
Lãn Ông truyền nghề giản dị, ân cần nhưng rất kinh điển với tinh thần “người đi trước rước người đi sau”, nhằm khuyến khích toàn dân học tập.   
     Nghề thầy thuốc cổ truyền dân tộc là một nghề không có đối thủ cạnh tranh về mức độ khó khăn và phức tạp trên mọi phương diện. Lương y theo Dịch lý là biểu thị nét Lưỡng Nhất hay là sự tổng hòa giữa hai yếu tố ngược nhau thành  một chỉnh thể, vừa đảm nhiệm chức năng chữa bệnh, vừa đảm nhiệm chức năng làm thuốc, bào chế thuốc và chăm sóc bệnh nhân đến khi khỏi bệnh. Đối chiếu sang bên Tây y thì lương y bằng bác sĩ, dược sĩ, hộ lý cộng lại (và hơn thế nữa).
     Đó là một nghề với chức năng chữa cả căn bệnh và người bệnh, tức chữa bệnh cho con người một cách trọn vẹn.
     Người lương y, trước hết, xét trên diện rộng, phải là con người toàn đức toàn tài, có lòng nhân ái sâu rộng. Tinh thần của Đạo Nho được Lãn Ông đề cập trước tiên như kim chỉ Nam cho người thầy thuốc. Theo y đạo của tiền nhân, người thầy thuốc phải thấm nhuần y đức, nắm vững y lý và giỏi y thuật. Lãn Ông trong tác phẩm “Y huấn cách ngôn” đã trước thư thấu đáo về đạo đức nghề y :

“Khi học nghề y, phải nên thấu suốt cả Nho lý. Một khi đã thông Nho lý rồi thì học y sẽ được dễ dàng hơn.” Ngài tiếp:
 “Nhân là đức tính cơ bản của nghề y, đòi hỏi trách nhiệm tối cao, bởi sự sống chết, họa phúc đều ở tay mình xoay chuyển. Lẽ nào người thiếu bản lĩnh, trí tuệ không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm trí không khoáng đạt mà dám theo đòi bắt chước nghề y”.

VI. Lương Y như Từ Mẫu

1. Đạo Hiếu

     Đạo hiếu là Đạo cao quý nhất của loài người. Đó là bản năng sinh tồn về sinh học, sau được nhân loại văn minh tôn vinh như một giá trị cao quý của Đạo làm người còn gọi là Nhân Đạo. Hãy quan sát các con vật ríu rít nấp dưới đôi cánh mẹ, rúc đầu, chúi mũi vào vú mẹ, rồi đến đứa trẻ sơ sinh quờ tay, rúc đầu tìm vú mẹ bú chùn chụt… Tất cả những sinh linh ấy khi có biến động hay bị đe dọa đều tìm đến sự che chở và bảo vệ của mẹ. Sau này sướng khổ, sầu bi đều kêu mẹ, kêu cha. Đạo hiếu bắt đầu từ đó. Ai sinh ra trên đời cũng đều phải biết ơn Đấng sinh thành, gần nhất là Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên rồi đến Trời Đất.
Nếu không thấu hiểu cái Đạo đầu tiên này thì những Đạo tiếp theo đều trở nên vô nghĩa. Thiên hạ mới tồn tại người Có Hiếu và người Bất Hiếu là vậy.
     Đạo hiếu của Lãn Ông với gia đình thời đã dẫn. Ở đây, chúng tôi muốn chia sẻ một nghĩa cử của Ngài khi tri ân các vị Tiên Sư Y Tổ từ thời thái cổ nước ta.
     Trong “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” có bài “Lễ nghi phụng sự Tiên sư về Y Dược”, Tập Thủ - dịch giả: Đình Thụ Hoàng Văn Hòe với sự cộng tác của Hoàng Đình Khoa, NXB Khai Trí , Sài Gòn 1972. Trong y thư, Ngài tâm sự cái sở học của mình trải qua bao gian khó và cuối cùng nhờ đọc được sách hay và vận dụng ngay vào chữa bệnh rồi thành công. Ngài viết: “… Vì thế tôi cảm kích, vẽ thần tượng Đức Trương Công, tác giả bộ Cẩm Nang, dọn sạch một chỗ làm thư viện, sớm tối hương đăng để báo ơn đức độ của Ngài. Lãn Ông còn lập kế hoạch tiết kiệm tiền hàng năm để có một khoản chi tiêu cho các lễ nghi phụng sự. Xắp đặt vị trí theo sách của các Tiên sinh hướng dẫn bài trí trên các ban thờ thật chính vị và kính cẩn. Ngài tiếp: “Nay nghi lễ như sau, để các bậc quân tử về sau có chí y dược nên nghĩ đến nguồn gốc. Thứ tự trên dưới, bên tả, bên hữu, phía đông, phía tây của các vị Tiên Thánh, Tiên Hiền do Tiên Sinh bài trí”. Sau đó là kể tên các tòa và các vị y tổ tương ứng với từng vị trí, để các môn đệ xắp xếp. “Tất cả gồm có 3 vị Thánh Đế sáng chế ra Y Dược là: 1. Đức Thần Nông Thánh Đế, 2. Đức Phục Hy Thánh Đế, 3. Đức Hoàng Đế Thánh Đế, 12 vị Thánh sư, 1 Thần vị tiên sư và 232 vị Hiền sư, Tiên sư và Tiên sinh. Tổng cộng là 248 vị đều được ghi danh và tước vị.” (10)
     Như vậy, qua việc thờ phụng Đấng khai thiên lập địa và Tiên Tổ nghề y, với lòng biết ơn và trân trọng, Lãn Ông đã để lại cho hậu thế những bài học về Đạo Hiếu truyền thống cho muôn thế hệ giữ gìn và phát triển.

2. Lương Y như Từ Mẫu

     Lãn Ông luôn truyền đạt và nhắc nhở cho hậu thế, Đạo làm thuốc là đầu mối của đạo đức chân chính, là nghệ thuật của lòng Nhân ái.
      Suy nghĩ về “Bốn chữ - Từ, Tế, Hoạt, Nhân”, bồi đắp “Tám chữ – Nhân, Minh, Đức, Trí, Lượng, Thành, Khiêm, Cần”, tránh mắc “Tám tội – Lười, Keo, Tham, Dối, Dốt, Ác, Hẹp, Thất đức”, là những chuẩn mực luân lý, đạo đức vẫn nguyên giá trị cho tới ngày nay.
     Những giáo lý mẫu mực luôn thể hiện trong những công việc hàng ngày của y gia, như đức tính bền bỉ, đào sâu suy nghĩ, khắc phục khó khăn, tận tâm cứu chữa, còn nước còn tát… Ngài thẳng thắn phê phán kịch liệt thói khinh thường, bắt chẹt người bệnh; dấu nghề, dấu dốt của thiểu số tà y.
 Từ đáy lòng lãn Ông chia sẻ:

Phải đâu vất vả mong ơn huệ
       Trong đáy lòng ta cốt cứu người.”
“Quên mình cứu chữa người ta,
Ngoài ra tất cả đều là phù vân.”

     Ngày nay, có nhiều thầy thuốc đồng lòng đi theo Lãn Ông, đứng trên thế kiềng ba chân của  Y Đức, Y Lý và Y Thuật vững chãi để hành Y Đạo, đó là tiếp thu truyền thống quý báu của tiền nhân, không những về chuyên môn mà trọn vẹn đạo đức văn hóa thái hòa dân tộc. Nhưng tiếc thay, Đất Nước hiện đang trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện về cả văn hóa, đạo đức lẫn lối sống. Xuất hiện một số đáng kể những thầy thuốc không thấm nhuần y đức, rơi vào cám dỗ vật chất tầm thường, tự hạ thấp nhân cách, làm mất uy tín ngành y và lây nhiễm tiếng xấu toàn xã hội. Đây là một nan đề lớn mà các thầy thuốc cùng chung trách nhiệm.
                                                      
VII.  Y nghiệp  lưu truyền

1.     Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh

     Sau mười năm biên soạn với gần bốn mươi năm kinh nghiệm, năm Canh Dần 1770, Lãn Ông cho ra đời bộ sách “Lãn Ông Tâm Lĩnh” sau đổi thành “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển, cùng với thực tiễn lâm sàng phong phú, là một Bách khoa thư đồ sộ và toàn diện về Y học cổ truyền dân tộc Việt Nam thời Trung Đại, thế kỷ XVIII. Đây là một cống hiến quan trọng cho sự phát triển của y học nói riêng, khoa học tự nhiên và xã hội nói chung, đồng thời là một di sản văn hóa y học mẫu mực của dân tộc và thế giới để cho hậu thế kế thừa và phát triển.

      “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” đóng góp một vị trí trang trọng vào bộ sách dân tộc như là cầu nối giữa các thế hệ thầy thuốc và quảng đại quần chúng với văn hóa sức khỏe, “sức khỏe quý hơn vàng“.
     Hoài bão của Lãn Ông là “chỉ muốn người đời không có bệnh”, nên Ngài luôn luôn phấn đấu để chiến thắng bệnh tật, bớt đau khổ và hạn chế chết chóc.  
     Tinh thông, sáng suốt và sáng tạo y lý trên nền tảng lý thuyết Kinh Dịch, Âm Dương Ngũ Hành. Cũng trên tinh thần đó tư duy khoa học của Lãn Ông hình thành vũ trụ quan và nhân sinh quan từ những quy luật và nguyên lý về khởi, sinh, thành, diệt của vạn vật, phục vụ lý thuyết biện chứng luận trị của Đông y.
Nắm vững tầm vĩ mô của Đại Đạo. Coi trọng cái Tượng hơn cái Hình qua bản chất và cơ cấu của sự vật, hiện tượng và con người (biết-hiểu-biện-thâu).
Áp dụng thường xuyên, liên tục những bước cơ bản của Quá trình nhận thức trong giáo dục nhân cách các thế hệ thầy thuốc kế cận - Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nguyên lý xây dựng và hình thành nhân cách này cũng có thể áp dụng cho sự ra đời một sản phẩm hay một quá trình kinh doanh, bắt đầu từ khâu thăm dò thị trường, quyết định đầu tư, sản xuất, dịch vụ thương mại và tiêu thụ sản phẩm.

     Giáo dục đức khiêm tốn để kiềm chế tranh đua, bon chen, thậm chí xung đột - “Biết đủ không tham” - Một triết lý sống có giá trị phổ quát toàn nhân loại.

     Trong phần đầu bộ sách lớn Y tông tâm lĩnh, Lãn Ông có chọn lọc chín câu cách ngôn của các thẩy thuốc quá khứ, sắp xếp lại, viết thêm lời bình luận, và đặt thành một chương: Y huấn cách ngôn. Người đọc sách có thể hiểu ngầm dụng ý của tác giả: muốn đọc Ngài, trước hết phải hiểu con người và "phương châm thực hành y lý", "nói chí mình" của Ngài. Đó là tiếng nói của lương tri, những bài học xương máu từ nhiều thế hệ đúc kết lại, trong đó có bài học xương máu của chính Lãn Ông. (11)
     Lãn Ông truyền đạt tinh thần thuyết nhân quả khi hành đạo làm thuốc: “Đạo làm thuốc là giữ gìn mạng sống, là đầu mối của đạo đức chân chính”. Qua nghề y người ta có thể bồi đắp chữ “Đức” được cao dầy nếu hết lòng vì người bệnh. Ngược lại, nếu lạm dụng để vô ý hay hữu ý gây hại thì mắc tội “Thất đức” không nhỏ.

     Ngài phàn nàn: “Than ôi, đem nhân thuật mà làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi thành buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn, không thể tha thứ được”. Có thể nói: ”Không có nghề nào nhân đạo bằng nghề y cứu sống người, nhưng cũng có thể nói: không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”. (Y đức - Y huấn cách ngôn)

     Vừa nêu lên những lời dạy bảo chí tình, chí lý, lại vừa nghiêm khắc chỉ rõ những đối tượng, những hành vi cần phải răn dạy; chu đáo, cẩn thận và tâm lý. Khi đọc đến chương Y huấn cách ngôn của Lãn Ông chúng ta nghĩ đến mười lời thề của Hippocrate, Thánh Y cổ Hy Lạp (460 - 375 ? TCN), mà sau này y học phương Tây vẫn dùng làm lời thề danh dự cho các thầy thuốc trước lúc ra trường. Chúng ta phải ngạc nhiên đến khâm phục trước những nét tương đồng ở tầm cao trí tuệ và chiều sâu tâm hồn của hai bậc đại y tôn.
     Hai con người sinh ra ở hai phương trời xa cách nhau, sống cách nhau hơn hai thiên niên kỷ, đương nhiên chẳng có mối liên hệ hiện diện nào, nhưng lại có nhiều điểm tương đồng trong suy nghĩ. Phải chăng, hai tâm hồn có cùng tần số dao động đã gặp nhau trong Tiềm thức cộng thông nhân loại, người xưa thường nói duyên kỳ ngộ, rồi nay ta gặp vô số những hiện tượng gọi hồn, áp vong thì cũng chẳng có gì là lạ.  Năng lượng tâm linh đến nay khoa học cảm xạ vẫn chưa có dụng cụ để đo tốc độ và độ lớn, bởi nó chuyển động siêu tốc vượt không thời gian.

     Trong Y huấn, Mục 10, Lãn Ông viết : « Đạo làm thuốc lại chia làm hai ngả Vương Đạo và Bá Đạo. Vương Đạo là đạo làm thuốc (Y Đạo), bá Đạo là thuật làm thuốc (Y Thuật). Vương Đạo thời lấy gốc tìm nguồn để chữa bệnh mà không chữa vào mệnh. Bá Đạo thời chữa đầu chữa chân, tức chữa ngọn không chữa gốc ». Đó là lý thuyết, đặng Lãn Ông than phiền :

     “Ôi ! nghề thuốc đâu phải có Vương Đạo hay Bá Đạo, chỉ lo cái hiểu biết nông hay sâu mà thôi. Cho nên, người hiểu nông chỉ biết lấy tạng phủ, khí huyết làm âm dương, lấy tâm thận làm thủy hỏa, không biết chân âm tức chân thủy làm căn bản cho huyết ; chân dương tức chân hỏa, làm gốc cho khí ; ấy đều là thủy hỏa vô hình của tiên thiên, căn bản của sự sống, cội rễ của tính mệnh, làm cương lĩnh chủ yếu cho các bệnh. Người ta tìm sự sống, thầy thuốc chữa bệnh, không ngoài thủy hỏa ấy được”.

     Chúng ta càng khâm phục trí tuệ của Lãn Ông trong cách tiếp cận những vấn đề gốc rễ, cơ bản của khoa học.
     Vương Đạo chính là phép trị dân theo Đức trị của Nho giáo, là hướng con người sống với nhau có tình (Âm) có lý (Dương), phải người phải ta, con hiếu với cha mẹ, anh em, vợ chồng yêu thương đùm bọc, cộng đồng hòa với nhau chung sống ... của văn hóa thái hòa.
     Khi nói đến nguyên nhân gây bệnh, bao giờ Ngài cũng nhìn cả hai phương diện: khách quan và chủ quan. Ngài không tách rời người bệnh với môi trường.     Theo Ngài, việc học tập các sách thuốc của Trung Quốc đời cổ là cần, nhưng không nên cứ nhắm mắt áp dụng. Vì phương Bắc và phương Nam khác nhau về khí hậu, người Bắc người Nam khác nhau về cơ thể gầy béo, chắc chắn có những bệnh phương Bắc có, phương Nam không có, có những phương thuốc người Bắc dùng tốt, người Nam không thể dùng (Ngoại cảm thông trị). Ngay trong cùng một miền, xưa và nay cũng đã không đồng nhất" ("Tiểu dẫn" Đạo du vận). Thậm chí trong cùng một miền, cùng một thời và cùng một loại bệnh, thì đối với từng người việc định bệnh cũng phải phân biệt, "già trẻ khác nhau, mạnh, yếu khác nhau, khí bẩm khác nhau, bệnh mới bệnh cũ khác nhau. (Ngoại cảm thông trị).(12)
     Không thể không ghi nhận một tinh thần tự chủ, và phần nào một thái độ hoài nghi khoa học, đã được thể hiện nhất quán trên toàn bộ sự nghiệp của nhà danh y. "Đọc sách của Trọng Cảnh nhưng không theo phương của Trọng Cảnh" (Ngoại cảm thông trị), đó là câu nói cửa miệng của Lãn Ông.  Phản biện, vạch ra sai lầm của Biển Thước, cho rằng huyệt mệnh môn nằm ở thận phải. Bằng y lý sắc bén Lãn Ông phân tích mệnh môn hỏa như là Thái cực trong tiểu vũ trụ con người, nó nằm ở khoảng giữa hai quả thận. Được các y gia hiện đại kiểm chứng và công nhận (BS. Hoàng Văn Sĩ, “Luận về Học thuyết Thủy Hỏa của Hải Thượng Lãn Ông vận vào chẩn đoán và điều trị”. NXB Từ điển Bách khoa 2006). (Thủy Hỏa 25 chương – Y hải cầu nguyên)
     Vì thế, Ngài đã không rơi vào con đường hời hợt, rập khuôn của nhiều thầy thuốc khác, sách nói sao thì hay vậy. Trái lại, Ngài đã đem vào trong cái vốn học thuật cả tâm hồn, trí tuệ, làm cho cái vốn chết ấy sống dậy, nhân lên rất nhiều lần. Đặc biệt, từ những kiểm nghiệm trong thực tiễn lâm sàng, đôi khi Lãn Ông còn tiến xa hơn, coi trọng sức mạnh của lý tính, và nghi ngờ thuyết định mệnh.

     “Điềm lành điềm dữ thật ra chỉ là sợi dây huyền bí của những chuyện báo ứng hão, còn cái chết thì mới đúng là nỗi đau xót trước mắt. Cho nên hễ gặp một chứng bệnh không chữa được, tôi tuyệt không dám vì cớ không chữa được mà chối từ, mà chỉ lấy tình thực bảo với người nhà bệnh nhân, rồi bóp bụng vắt óc, lo tìm thang chạy thuốc, giành cái sống từ trong chỗ chết, dốc sức cứu vãn người bệnh cho đến khi dương khô âm kiệt mới thôi" ("Tiểu dẫn" Y âm án) (13).

      Con người là tổng hòa các yếu tố tự nhiên và xã hội, với cơ cấu CON + NGƯỜI.
Nhiệm vụ của thầy thuốc là phải chữa trọn vẹn CON NGƯỜI, đó là tinh thần chủ đạo của Y đạo, nghệ thuật của lòng nhân ái.

2.     Y  Án

     Y án gồm Dương Án là những bệnh Lãn ông cứu sống; còn Âm Án là những bệnh không cứu sống được. Đó là lối truyền kinh nghiệm cả hai mặt. Ở đây Lãn Ông điều chỉnh cặp đối cực Âm Dương, sao cho ổn định  và phát triển yếu tố tích cực Dương, giảm yếu tố tiêu cực Âm theo tinh thần Dịch lý.

a.     Y Dương án

     Trong lời Tiểu dẫn Y Dương án là những lời tâm sự từ đáy lòng về y nghiệp từ khi mới vào nghề đến khi thành thục có thể chia sẻ, truyền đạt thông tin, trao đổi kinh nghiệm, cổ xúy y đạo. Lãn Ông viết:

     “… không tiếc công phu, bén mùi y học, càng thấy say sưa mới bắt tay chữa bệnh, trước chữa người nhà, sau chữa người ngoài, đã được nhiều phen kinh nghiệm. Trong một năm chữa khỏi hàng ngàn bệnh, không lấy gì làm khó, cũng có một vài bệnh khó rồi cũng phải tìm hết ra ngoài khuôn pháp rồi cũng chữa nổi. Nhân đó chép thành nghiệm án, không biết rằng tự sức mình suy nghĩ được mà thành công chăng? Tôi vẫn không dám đem ý kiến của mình mà khoe với ai, chỉ cốt là ghi lại làm một tập nghiệm cho mình và cho nhà mình đó thôi.”

     Lãn Ông tâm sự những câu chuyện cảm động, day dứt lương tâm với những tình huống nghịch lý khó xử. Nhưng với bản lĩnh, kinh nghiệm và lòng vị tha, mọi sự được giải quyết êm ấm. Đó là chuyện chữa bệnh cho một cháu bé gái bị đậu mùa con gia đình thuyền chài nghèo khổ; rồi đến những nghịch cảnh khác như gặp phải viên thầy thuốc họ Lâm hợm hĩnh, hách dịch lại ghen ghét, đố kỵ tài năng, Lãn Ông lần này thì không bình tĩnh nổi :

     “Tôi thấy họ Lâm chọc tức, lòng muốn cứu sống người bệnh bốc lên mười phần thì lòng căm giận cũng bốc lên mười phần”.

b.    Y Âm án
.
     Trong lời Tiểu dẫn Y Âm án là một y thư đặc trưng khác biệt với các tác giả từ xưa tới nay, y thư  phân tích, đánh giá và tự nhận sai lầm, khuyết điểm. Sau đó kiểm điểm sâu sắc, nghiêm túc sửa sai, rút kinh nghiệm và làm bài học cho hậu thế. Lãn Ông viết:

     “Nghề thuốc là nhân thuật, thầy thuốc hẳn phải lấy việc giúp người là  việc hay. Cứu được một mạng thì hoa chân múa tay để biểu dương cho người biết; lỡ có thất bại thì lại giấu im đi, ít có người không dấu cái điều xấu của mình mà dám đem sự thực nói với người khác. Riêng tôi dám nói là thoát khỏi cái thói đó chăng?... Trong khi chữa bệnh đã nhiều phen xoay dữ làm lành, cứu chết ra sống biết bao nhiêu người, mà bó tay chờ chết, cũng không phải là ít.”
“Tuy theo nghề y nhưng không hám chữa bệnh lắm đâu, vì e rằng chữa nhiều thì dễ lầm nhiều, nhầm nhiều thì âm càng nhiều, đâm ra làm phúc mà rước họa, nên chăng?”

     Trong số những trường hợp phải bó tay, có một trường hợp được ghi ở Bệnh án số 4, tập Y âm án.
     Một lần, có vùng Nghệ An có loạn, Lê Hữu Trác đem gia đình chạy đến núi Thành. Một nhà phú hộ ở đấy có người vợ bị bệnh thũng, liền đón ông đến, cho ở nhờ, để chữa bệnh cho vợ mình luôn. Lúc đầu êm thấm, vì gặp thầy giỏi bệnh giảm hẳn, ai cũng mừng. Nhưng rồi sau, Lãn Ông thấy “lòng như lửa đốt, nằm ngồi như kim châm”, lại thêm có chỗ không được vừa ý, lòng dạ tức đầy, chán không muốn chữa. Ngài bỏ đi mặc cho gia đình người bệnh níu lại:

     “Cả nhà này nghe tôi nói xong , có ý lo sợ. Người chồng quỳ xuống van lơn hết cách, cố ý giữ tôi lại. Tôi càng bực mình thêm và bỏ đi. Biết không giữ được, bèn sai bốn năm người đày tớ chạy theo đưa tôi về”.

     Kết quả: vì không còn thầy hay, người bệnh ốm nặng trở lại, mười hôm thì chết. (14)
Tại sao Lê Hữu Trác lại bỏ đi? Hình như Ngài cũng lúng túng. Ngài băn khoăn tự hỏi và đồ rằng có lẽ tại số người kia xui nên vậy. Nhưng nói gì chuyện số mệnh ở đây, khi mà chính Lê Hữu Trác, viết lời đề dẫn làm tư tưởng chủ đạo tập sách đã bác bỏ định mệnh? Và sao lại có thể chán nản riêng một trường hợp đó thôi, khi mà ở mọi bệnh án khác trong sách, Ngài đều hết lòng "giành cái sống từ trong cái chết" cho người?

     Sau hàng chục năm học hỏi, chữa bệnh, nghiên cứu, trải nghiệm, Lãn Ông đã có một kiến thức và trình độ nhất định. Xét thấy cần tổng hợp kiến thức và trước tác y thư, vừa dùng để dạy học, trao đổi kinh nghiệm thường xuyên với môn sinh, đồng nghiệp vừa có ý định lưu truyền cho đời sau.
     Như vậy, toàn bộ tri thức về Y đức, Y thuật và Y lý trọn đời đã được gửi gắm trong bộ y thư “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”.


3. Thượng Kinh Ký sự
                                                           
     Thượng Kinh Ký Sự (phần cuối Bộ “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”).
     Đây là một thiên phóng sự cả về thơ và văn, viết về những điều mắt thấy tai nghe một cách giản dị, trung thực có giá trị như một sử liệu.
 Ký sự thuật lại việc Lãn Ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Chúa Trịnh với bao cảnh éo le đan xen.
      Trong con mắt nữ văn sĩ Pháp, Yveline Féray, Lãn Ông hiện thân như một vị phi anh hùng hay anh hùng thầm lặng. Vị y sư chao đảo bởi cuộc chiến đấu thầm lặng đầy hiểm nguy để giành lại sự sống trong cái chết. Câu chuyện xoay quanh chủ đề, sự đối đầu giữa quyền lực và nghề y, thông qua hình tượng vị danh y bị làm con tin cho hai phe nhóm đối địch là bà Chánh Cung và Ấu Chúa Trịnh Cán. Khẳng định con người kiêm ái, bản lĩnh và khôn khéo trước những cám dỗ danh vọng.
     Nhà nghiên cứu Phan Quý Bích từng nhận định:

”Bà Yveline Féray có con mắt xanh tinh tường và độc đáo khi nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong suốt mười năm, đã phát hiện hai nhân vật điển hình trên hai lĩnh vực chính trị và văn hóa. Đó là Danh Thần Nguyễn Trãi, về chính trị và Đại Danh Y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, về văn hóa”.

     Vinh danh hai nhân vật điển hình của Việt Nam, nữ văn sĩ người Pháp đã cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết lịch sử, về Nguyễn Trãi cuốn “Vạn Xuân”, dịch giả Nguyễn Khắc Dương, NXB Văn Học 1997, về Lê Hữu Trác cuốn “Lãn Ông”, dịch giả Lê Trọng Sâm, NXB Văn Nghệ TP. HCM 2005.

     Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trong bài “Lê Hữu Trác và con đường của một trí thức trong cơn phong ba nửa cuối thế kỷ XVIII”- Tr. 492-526, Tổng tập -Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật, NXB Giáo dục Việt Nam 2013, đánh giá:

    “Thượng Kinh Ký Sự, đóng góp nổi bật của nhà văn Lê Hữu Trác vào văn xuôi tự sự cổ điển Việt Nam. Đây là một cuốn bút ký rất hiếm thấy trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII... cùng với Hoàng Lê nhất thống chí và các tập tùy bút của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án ... những dòng ghi chép chân thực của Lê Hữu Trác đã đem lại cho người đọc một cách nhìn, cách nghĩ và một tình cảm thực sự mới mẻ. Chúng không những gây được một ấn tượng trong lớp đọc giả sĩ phu bấy giờ mà còn ảnh hưởng đến khí sắc văn xuôi chữ Hán giai đoạn sau”.

    Lần lượt khảo sát những điểm nhấn của Lãn Ông trong hành trình lên Kinh.
     Điểm nhấn quyền lực và nghề y là một phát hiện độc đáo xuyên suốt. Đây là khám phá lột tả được trạng thái tâm lý-phản tâm lý hay nghịch lý đấu tranh nội tâm của nhân vật chính.
     Ấn tượng ban đầu đối với chàng thư sinh Thuần Chẩn là bối cảnh rối ren, bất ổn của đất nước, đã được thể hiện trong phần cuối của bài thi Hương. Thấy rõ quan điểm công minh, chính trực và tôn trọng sự thật của chàng thư sinh. Tiếp đến là sự đoạn tuyệt với hiện thực bế tắc không lối thoát đã biến cái chí lớn thành hư không và người tráng sĩ thành cuồng ngông.
     Và con đường đến với chân lý đích thực là trở về. Đây là tác động khách quan, mà toàn dân cùng chung số phận. Còn tác động trực tiếp chính là giữa quyền lực (bộ máy chính quyền) với thầy thuốc và nghề y (yếu tố văn hóa). Trong tất cả các xã hội thì văn hóa luôn bị lép vế trước quyền lực. Một mặt, văn hóa là nguồn sống và nguồn sáng, là trường tồn, là vạn đại, nhưng luôn bị điều chỉnh bởi quyền lực. Mặt khác, quyền lực (chính quyền) là yếu tố nhất thời, nhưng lại được thực thi bởi sức mạnh của mệnh lệnh, hay cưỡng chế hành chính, thậm chí cả vũ lực.
     Mức độ cao thấp của văn hóa luôn tỷ lệ nghịch với độ lớn của bộ máy nhà nước. Ở những nước dân trí càng cao thì nhà nước càng nhỏ, ngược lại, ở những nước dân trí càng thấp thì nhà nước càng to.
     Hãy xem phản ứng của nghề y và quyền lực, khi Lãn Ông nhận được chiếu chỉ của Triều đình ban lệnh và sai lính trấn hộ vệ đưa Lãn Ông ngay lên Kinh đợi mệnh. Ngài nghe thấy tin mà sửng sốt:

    “Tôi thấy sự việc quan trọng như thế, lo sợ vô cùng, người cứ như ngớ ngẩn mất nửa giờ”. Rồi tiếp: “Tôi chỉ ân hận, sao mình đã đi ở ẩn mà chưa ở ẩn cho kín?” Và chấp nhận: “Cây kia có hoa nên bị người ta hái, người ta có cái hư danh nên phải lụy về chữ danh. Ví bằng trốn cái danh đi có tốt hơn không?”(Thượng Kinh ký sự).

     Còn việc gấp của Triều đình là Đông Vương cung Thế Tử đang lâm bệnh nặng cần chữa trị khẩn cấp. Đó là việc đại sự không thể từ chối.
     Tiếp đến là những mối quan hệ đan xen đầy rẫy sự phức tạp, thấp hèn, kể cả bất nhân trong phủ Chúa. Đến các tính cách hoạn quan như đố kỵ, bon chen, nói xấu sau lưng, đồn nhảm, tranh công và vô vàn các cạm bẫy khác. Lãn Ông phải sống và làm việc trong hoàn cảnh bất lợi, đơn phương độc mã trước áp lực của những hoài nghi, ghen tức. Nhưng với bản lĩnh, nghị lực và tài trí, Lãn Ông đã thuyết phục và chiếm được lòng tin của Thánh Thượng và Quan Chánh Đường. Bài thuốc của Lãn Ông được chấp nhận, sau được trọng thưởng mười quan tiền và mũ áo. Trong lời tâu với Thánh Thượng, Quan Chánh Đường nói về Lãn Ông:

     “Ông ta là người quê mùa, ăn nói vụng về, nhưng về hiểu ý lý sâu sắc thì thầy thuốc trong thiên hạ không ai hơn được.” Vừa nghe Chánh Đường nói xong, Lãn Ông phản ứng ngay: “Tôi nghe Quan Chánh Đường nói xong lạnh cả tóc gáy, chuyến này thì mắc vào vòng, trời cứu cũng không thoát được”.  (Thượng Kinh ký sự).

      Mâu thuẫn tâm lý xuất hiện trở thành nan đề, hai nỗi lo chồng chất lên Lãn Ông, thứ nhất, làm sao chữa khỏi bệnh cho Chúa, thứ hai, chữa bệnh được rồi thì sẽ phải chôn chân nơi Kinh thành.
      Trạng thái ”được” hay “bị” triệu lên Kinh cũng như vô vàn các trạng thái khác với tính chất như nhau. Độc lập, tự do luôn luôn bị đe dọa và miễn cưỡng tuân thủ dưới áp lực của mệnh lệnh hành chính (tất nhiên là đối với Lãn Ông).    Trước một thế lực áp đảo, thân phận bình dân chỉ còn cách vâng lệnh để an thân, theo đó tùy cơ ứng biến dù đã mắc vào vòng danh lợi nhưng cũng không để danh lợi mê hoặc. Cuối cùng cũng khôn khéo thoát thân.

     Điểm nhấn tiếp theo, Người anh hùng thầm lặng.
     Chúng tôi cho là một đánh giá xác đáng với con mắt tinh tường của nữ văn sĩ Féray về nhân vật văn hóa Việt Nam.
     Lãn Ông hiện thân là Người anh hùng Văn Hóa Việt Nam hay là Danh Nhân Văn Hóa, con người có cống hiến lớn lao cho đất nước và được vinh danh tên tuổi, được viết sách, ghi sử, vẽ tranh, tạc tượng. Âu cũng là một tri ân tế vi với Ngài, trên bức hoành phi trong ngôi chùa Tượng Sơn ở Hương Sơn, lưu lại dòng chữ : “Vô Thượng Y Vương - 王者至尊”.
     Người anh hùng, trong văn hóa Việt Nam, nhờ nắm vững  TAM CƯƠNG:
Nhân, Trí, Dũng. Nhân là Tình thuộc nguyên lý Mẹ, Trí là Lý thuộc nguyên lý Cha, Dũng hay Hùng Dũng là hệ quả của Tình Lý. Anh hùng mang trọn đức tính của các đứa con mang dòng máu Việt là Trai Tài, Gái Đảm, con cái của Mẹ Tiên Cha Rồng của Nhân và Trí.
     Trai tài gái Đảm là kết quả của lao động sáng tạo bằng Nhân và Trí, cũng là nguồn Sống  (Nhân) và nguồn Sáng (Trí) của nền văn hóa.
     Nhớ lại hành động quyết đoán tự chủ của chàng thư sinh Thuần Chẩn khi cởi giáp bẻ tên, trở về với núi rừng, muông thú nơi thâm sâu cùng cốc để bắt đầu bước ngoặt mới của cuộc đời. Đó là một hành động đầy bản lĩnh và cố gắng hướng thiện một cách thầm lặng và an nhiên. Chàng trai Thuần Chẩn dấn thân vào y nghiệp và quyết tâm cắm cờ hồng trong ngành y.

     Những bài học về nghề thuốc đầu tiên khi chàng trai trẻ họ Lê đến nhờ thầy Trần Độc chữa bệnh cho mình, rồi nghe thầy dặn cách dùng thuốc, hỏi thầy cách chữa. Thấy nghề chữa bệnh cũng thu hút sự chú ý, rồi chăm chú nghe thầy giảng giải y lý, đọc sách Cẩm Nang Phùng Thị, những chỗ sâu sắc về dịch lý âm dương trong sách thuốc đều thấu suốt cả. Thầy Trần thấy có năng khiếu bèn muốn dốc hết cả kiến thức của thầy cho cậu tân học trò. Thời gian âm thầm, lặng lẽ trôi và :

     “… cứ miệt mài, không tiếc công phu, bén mùi y học, càng thấy say sưa mới bắt tay chữa bệnh, trước chữa người nhà, sau chữa người ngoài, đã được nhiều phen kinh nghiệm. Trong một năm chữa khỏi hàng ngàn bệnh, không lấy gì làm khó, cũng có một vài bệnh khó rồi cũng phải tìm hết ra ngoài khuôn pháp rồi cũng chữa nổi. Nhân đó chép thành nghiệm án, không biết rằng tự sức mình suy nghĩ được mà thành công chăng? Tôi vẫn không dám đem ý kiến của mình mà khoe với ai, chỉ cốt là ghi lại làm một tập nghiệm cho mình và cho nhà mình đó thôi.” (Tiểu dẫn “Y dương án”).

     Tiếng vang khắp vùng Châu Hoan, khách đến thăm nhà nườm nượp, bệnh nhân cảm tạ, người bình dân thì vài đấu gạo, nhà có của hay những quan chức thì lễ tạ hậu hĩnh. Riêng có trường hợp quan Thự Trấn Hoàng Đình Bảo mắc bệnh nặng, được Lãn Ông chữa chạy tận tình, sau đãi Lãn Ông vào bậc khách quý, ngồi kề sát chiếu, thết đãi rất trọng hậu. Và cũng chính vì cái chữ tín chữa bệnh này mà sau đó “được” ông ta tâu với Chúa Trịnh xuống chỉ, triệu Lãn Ông lên Kinh chữa bệnh.
     Nhớ lại năm Bính Tý 1756 sau mười ba năm kể từ ngày đi thi Hương ở Sơn Nam Hạ, Lãn Ông có dịp gặp lại người em rể họ là Diên Hà Bảng Nhãn Lê Quý Đôn ở Kinh Đô, một thành danh nơi quan trường, sau trở thành quan Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ, một nhà Bách khoa toàn thư lớn của Đại Việt, một ở chốn núi rừng thâm sâu cùng cốc, nhưng âm thầm nổi danh như một y sư, tiếng vang vọng tới Cửu trùng. Hai quan điểm sống trái ngược nhưng vẫn đạt đỉnh thành tựu trong cuộc đời.
Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ Tiên Sinh than vãn khi chia tay Lãn Ông:

     “Giữa thời buổi người ta xô chen giẫm đạp lên nhau mà chết chốn trường thi, thế mà bác Thuần Chẩn một người tài cao, học rộng lại không màng gì với công danh, phú quý để trở thành lão già lười đất Hải Thượng, tinh thông y lý, chuyên tâm trị bệnh cứu người thì quả là một sự lạ lùng!” (15)

     Chính thái độ khâm phục này là một nhận định xác đáng về một con người anh hùng và vô cùng thầm lặng đáng tôn kính này.
Anh hùng bởi một tấm lòng cao cả, một bản lĩnh phi thường, một sức lao động miệt mài bằng Nhân và Trí để cống hiến trọn vẹn cho đời.
     Thầm lặng bởi tự nó không bon chen, không tham chính, không ở nơi kinh đô phố thị, mà âm thầm lặng lẽ, tự tranh đấu với chính mình, ở nơi thâm sâu cùng cốc, hiu hắt quê mùa.
     Vị y sư đã thành tựu từ cái sự giản dị, tầm thường để trở thành phi thường.

Lời kết

     Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hội tụ đầy đủ tinh hoa của Trời, Đất, Người và kết tinh thành Niềm tin Chân lý vượt không gian và thời gian.
     Niềm tin đó là nền tảng của Dịch lý cùng với các thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Văn Hóa Thái hòa Việt Nho.
     Với tư tưởng khai sáng bằng tri thức khoa học, Ngài chỉ rõ rằng, y đạo là bể kiến thức vô bờ, đầy chông gai, nhọc nhằn và bí ẩn, muốn vượt qua nó thì không gì ngoài nỗ lực của cá nhân và cái chìa khóa duy nhất là sự hiểu biết:

     “… chỉ lo cái hiểu biết nông hay sâu mà thôi “. (Y huấn cách ngôn)

     Cho nên, cái sở học, tức là cái vốn tri thức khoa học đích thực của mỗi người được Lãn Ông suy tôn lên đỉnh cao của trí tuệ như là bảo vật quý giá. Đó chính là tinh thần “Cách vật trí tri” của Nho gia.
Trong lời Tiểu dẫn Đạo Lưu Dư Vận, Ngài viết:

“Tôi thà đắc tội với các bậc tiền bối, chứ quyết không phụ cái sở học của tôi”.
    
     Chúng ta liên tưởng đến những tấm gương đấu tranh và bảo vệ chân lý khoa học (Thuyết Nhật Tâm) đến cùng của các tiền nhân Copernic, Bruno, Galileo Galilei, sẵn sàng đổi mạng sống, dũng cảm, hiên ngang trên giàn hỏa thiêu vì một chân lý cao cả :
“Dù sao Trái Đất vẫn quay”.

     Họ, những con người vì lý tưởng cao đẹp, dù ở chân trời nào, với niềm tin chân lý, lòng quả cảm và sự cống hiến cho nhân loại đều trở thành bất diệt.

     Chúng ta vừa kết thúc chuyến thăm Bảo tàng Văn Hóa Lãn Ông, với những cảm nhận khác nhau về quá khứ của một con người, một sự nghiệp và một thời đại. Để kết thúc bài viết của mình, tôi xin trân trọng gửi lại một câu kết từ kho tàng Minh Triết Việt mà nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray đã dùng làm câu kết trong cảm nhận của mình về Lãn Ông:

“Nhân bất tận Tình”.


Kính cẩn!

Hà Nội Giờ chính Ngọ, ngày Ngọc Đường Hoàng Đạo (Tân Tỵ), tháng Kỷ Mùi, năm Quý Tỵ , tức 14.07.2013.

Lê Hữu Khánh, tự Phúc Khánh, Cháu Đời thứ 19 từ Cụ Thủy Tổ Lê Phúc Tiên là Giám sinh Quốc Tử giám thời Hồng Đức (1460-1497),
Cháu Chín đời của Lãn Ông, tự đề.

Địa chỉ và điên thoại liên lạc: khatsi235@gmail.com, 0904898957,
Căn hộ 501 B1, Chung cư Nhạc Viện, số 22/125 phố Trung Kính, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.



Chú thích
(1)   Kim Định và các tác giả Văn Hóa Việt Nam trên vietnamvanhien.net
(2)   GS. Nguyễn Huệ Chi, Bài “Lê Hữu Trác và con đường của một trí thức trong cơn phong ba nửa cuối thế kỷ XVIII” trong Tổng tập “Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật”, Nguyễn Huệ Chi. NXB Giáo dục Việt Nam, 2013.
(3)        Lê Gia Vinh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, 1986. Tự xuất bản 1997, Hà Nội.
(4)   Xem (3)
(5)   Các tác giả thường trích dẫn hai vế đầu, vế thứ ba “giữa hiểu nhân tình”, người viết bổ sung cho phù hợp với tam tài Thiên, Địa, Nhân. Mong được chỉ giáo.
(6)   Việt Nhân, Văn Hóa Thái Hòa Việt tộc  3 tập: Văn Hóa Đông Nam,         Văn Hiến Việt Nam và Đạo lý xử thế, phát hành tại Hoa Kỳ – vietnamvanhien.net
(7)   , (8) & (9) Xem  (6).
(10) Về 3 vị Thánh Đế. Các cụ ngày xưa cũng bị nhầm do sử Tàu viết sai. Ba vị ở đây chính là Tam Hoàng hay Tam Vương thuộc Hoàng Kỷ trong cổ sử Tàu ghi lại thời Đại Chủng Viêm Việt, lần lượt là Thần Trời – Toại Nhân cho Lửa, Thần  Đất – Phục Hy cho Kinh Diệc/Dịch, Thần Nhân – Thần Nông dạy trồng lúa và nghề y. Còn Hoàng Đế chính là Hiên Viên thủ lĩnh du mục ở tây bắc Trung Quốc (thuộc Đế Kỷ, sau thời Tam Hoàng hơn 600 năm), sau khi đánh thắng Đế Lai tức Li/Si Vưu và xưng Hoàng Đế, đứng đầu Ngũ Đế (Đế Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn) theo sử Tàu. Cũng theo những nguồn sử sai lệch khác của Tàu, Hoàng Đế còn được gọi là vua sáng chế ra chữ viết, xe cộ, nghề y…
(11), (12),(13), (14) & X. (2)
(15) X. (3)

Tài liệu tham khảo 
1.     Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, Tập 1,2,3,4. NXB Y học, 2008.
2.     Hải Thượng Lãn Ông, Thượng Kinh Ký Sự.
Biên dịch: Bùi Hạnh Cẩn. NXB Hà Nội 1977.
Biên dịch: Ứng Nhạc Vũ Văn Đình. NXB Văn Học 1993.
3.     Lê Hữu Hành tức Tràng Thành, Gia phả Họ Lê Hữu 1959.
4.     Viện Hán-Nôm, Văn Xá Lê Tộc Thế Phả, A 679.
5.     Lê Hữu Quán, Văn bia họ Lê Hữu, NXB Thế Giới 1994.
6.     Viện Viễn Đông Bác Cổ EFEO ấn hành 1972, Thượng Kinh Ký Sự.      
     Dịch và chú giải: Nguyễn Trần Huân.
7.     Yveline Féray, Lãn Ông (Monsieur le Paresseux), NXB Văn Nghệ TP. HCM 2005, Dịch giả: Lê Trọng Sâm.
8.     Lê Trần Đức, Thân thế và sự nghiệp Hải Thượng Lãn Ông Lê hữu Trác. NXB Y học và Thể dục thể thao, Hà Nội 1970.
9.     GS Pierre Huard & Maurice Durand, Lãn Ông và nền y học Trung – Việt, trong BSEI, tập XXVI, số 3, Sai Gon 1953.
10.             Kim Định và các tác giả Đạo việt An Vi, anviettoancau.net, vietnamvanhien.net, minhtrietviet.net, dunglac.org, laclong.tk với một thư viện đồ sộ về Văn Hóa VN.
11.             Madeleine Colani, giáo sư khảo cổ người Pháp, Viện Viễn Đông Bác Cổ EFEO – Đông Dương, công trình nghiên cứu “Văn Hóa Hòa Bình”,1929.
12.             Lê Gia Vinh, Hải Thượng Lãn Ông Lê hữu Trác, 1986. Tự xuất bản 1997 Hà Nội .
13.             Nguyễn Khắc Minh, Việt Y Tổ. viethoc.com
14.             Nguyễn Huệ Chi, Văn học cổ Cận Đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật. NXB Giáo dục Việt Nam, 2013.






















PHỤ LỤC

I. VỀ NĂM SINH LÃN ÔNG

     Về năm sinh Hải Thượng Lãn Ông, đây là một câu chuyện khá thú vị.
     Thú vị ở chỗ, những cái sai nối tiếp nhau sau một cái đúng duy nhất. Cái đúng đó được lưu giữ trong ít nhất 10 cuốn Gia Phả họ Lê Hữu gốc Liêu Xá, đặc biệt, trong cuốn Văn Xá Lê Tộc Thế Phả, mã số A 679, hiện lưu trữ tại Viện Hán Nôm, một bản lưu giữ trong tủ sách của gia đình GS Huệ Chi. Giở xem trang viết về cụ Phu Đình Bá Lê Hữu Mưu phần các con của cụ thì thấy rõ cậu Chiêu Bảy, rồi chàng Thuần Chẩn là ai và là con thứ mấy trong các người con và con trai thứ mấy?
Xin thưa, trong khi quý vị đang đọc những dòng này, có thể dừng lại và tìm trên Google, có thể thấy các kết quả rất khác nhau. Hải Thượng Lãn Ông sinh năm 1720, 1721, gần đây 1724.
     Sau khi tôi gặp GS Huệ Chi thì mới gỡ ra cái chỗ “thắt nút” này.
     Có thể nói, đây là một cơ duyên hình như cụ Lãn thôi thúc. Thời gian này là lúc Dòng họ chúng tôi đang làm các việc chuẩn bị cho ra đời bộ phim vế thân thế và sự nghiệp Hải Thượng Lãn Ông. Tôi được biết, cụ Nguyễn Đổng Chi và người con trai cụ là Nguyễn Huệ Chi đều có những công trình nghiên cứu về Lãn Ông. Tôi chủ động viết thư và xin gặp GS Huệ Chi. Lá thư được phúc đáp với tấm lòng trân trọng và sẵn sàng giúp đỡ của GS Huệ Chi. Tôi gặp GS HC và được nghe kể lại câu chuyện cái “thắt nút” nói trên.
     Thầy Huệ Chi kể, đó là vào thời điểm gấp rút chuẩn bị lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Lãn Ông, mà các hoạt động theo kế hoạch, phải bắt đầu từ tháng 08 năm 1970.
Thầy HC đã gặp cụ Lê Trần Đức là tác giả biên soạn cuốn sách “Thân thế & Sự nghiệp Y học của Hải Thượng Lãn Ông ”, NXB Y học & TDTT, 1970, và là một trong những người thực thi công việc chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Lãn Ông. Thầy Huệ Chi có nói về năm sinh của Lãn Ông là năm Giáp Thìn 1724, được ghi rõ trong Văn Xá Lê Tộc Thế Phả (một trong những tư liệu về Lãn Ông mà hai cha con Thầy HC đã nghiên cứu và dịch thuật từ những năm 1957 & 1964).
Rất tiếc, cụ Lê Trần Đức  trả lời, vì công tác chuẩn bị đã hoàn tất mọi việc, nay chỉ lên lịch, báo cáo, đồng thời tranh thủ kết thúc những việc còn lại và công bố ngày kỷ niệm, thời gian không cho phép dừng lại. Thế là buộc phải theo lao vậy thôi. Biết là sai nhưng vẫn phải làm.
     Như vậy năm sinh Giáp Thìn 1724 trở thành Canh Tý 1720 (nhầm với năm sinh người anh của Lãn Ông).
     Năm 1994 NXB Thế Giới phát hành cuốn Văn bia họ Lê, do cụ Lê Hữu Quán biên soạn, cụ Lê Hữu Hà giới thiệu và cụ Lê Hữu Nhậm biên dịch. Trang 155 có đăng toàn văn bài [“Tham luận Hội thảo về Lãn Ông Lê Hữu Trác nhân dịp Nhà Nước công nhận Di tích lịch sử văn hóa ở quê hương Liêu Xá, Hải Hưng” - ngày 14 tháng Giêng năm Nhân Thân tức 17.02.1992, Lê Hữu Quán, Đời thứ 16 Chi họ Lê Hữu ở Hương Sơn, Hà Tĩnh.]. Trong bài tham luận, tác giả trích dẫn rất rõ về năm sinh Lãn Ông theo Gia Phả:
     [“Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác lúc nhỏ gọi là Thuần Chẩn, thuộc đời thứ 10 trong Gia phả Họ Lê ở làng Văn Xá, Xã Liêu Xá, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.
Người sinh vào thời Hậu Lê, niên hiệu Bảo Thái thứ năm, ngày 12 tháng 11 năm Giáp Thìn (1724) giờ Dần, ở thôn Văn Xá, mất về đời Tây Sơn niên hiệu Quang Trung năm thứ tư (1791), năm Tân Hợi ngày Rằm tháng Giêng, thọ 67 tuổi)”.
Gia phả ghi tiếp: “Con thứ bảy trong gia đình là Lê Hữu Tán sinh năm Canh Tý (1720) tháng hai ngày 14, giờ Tý”].

     Điều này cho thấy, sự nhầm lẫn đáng tiếc của các nhà nghiên cứu, biên tập đã  không đọc kỹ gia phả hoặc không hiểu cách viết gia phả trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
      Cụ Lê Hữu Mưu thân sinh của Lê Hữu Trác , có 3 vợ và 12 con (8 con trai và 4 con gái). Lê Hữu Trác là con thứ 11 trong gia đình, chỉ tính con trai thì cụ là con trai thứ bảy, nên tục gọi là Chiêu Bảy. Cho nên họ đã nhầm Lãn Ông với người anh trai là con thứ 7 trong nhà là cụ Lê Hữu Tán, Gia phả ghi:

      “Lê Hữu Tán húy Tự sau đổi là Đình Ngạc, làm Lễ Bộ Tư Vụ, rồi làm Tri Phủ    
Anh Đô, hiệu là Thạch Trai, sinh năm Canh Tý (1720), giờ Tý mất năm BínhNgọ (1786) thọ 67 tuổi, húy ngày 12 tháng hai …”

     Khoảng 7-8 năm trước cụ Hoài, cụ Hà đã viết thư gửi đến nhiều cơ quan chức năng để đính chính lại theo gia phả là năm 1724 (Giáp Thìn), nhưng đều vô hiệu.
      Điều đáng tiếc về tượng đài Lãn Ông tại Hương Sơn, cụ Hà đã báo cho Viện Bỏng bằng văn bản trước khi khắc bia đá và tượng, nhưng Cty Mỹ thuật TƯ cũng không sửa và vẫn để năm 1720 (lời cụ Hà và anh Lê Năm).
      Vậy mà năm 2010 là đúng 290 năm ngày sinh Hải Thượng theo văn bản Nhà Nước, mà Nhà Nước lại không tổ chức kỷ niệm (?). Hiện Họ Lê Hữu đang soạn thư thông báo cho Nhà Nước chuẩn bị kế hoạch kỷ niệm ngày sinh của Ngài.
      Sang năm 2014, theo đúng Gia phả Dòng họ (trên 10 cuốn) là vừa tròn 290 năm ngày sinh Hải Thượng (1724-2014). Vì vậy, Hội đồng Dòng họ thông báo cho bà con ở khắp nơi chuẩn bị tinh thần kỷ niệm ngày Đại Lễ này.
     Từ đó đến nay cũng không thấy các cơ quan chức năng của Nhà Nước nhắc lại sự kiện hay tìm cách đính chính cho phù hợp. Quan điểm cá nhân tôi là hết sức thông cảm và hiểu sự tình cho Ban Tổ Chức lúc đó, đặc biệt là ý kiến của cụ Lê Trần Đức và một số người. Thực ra cũng là phát tâm để làm việc thiện cho toàn dân chứ không vì tư lợi.
     Xin được trân trọng cảm ơn những tấm lòng vàng đã cống hiến cho sự nghiệp chung của Đất Nước và Dân tộc.
     Nhưng cái nút vẫn là cái nút.
     Đây thực sự là việc không nhỏ, vì đã được công bố chính thức về mặt Nhà Nước. Cho nên việc đính chính hoặc sửa đổi cũng phải thực hiện từ phía Nhà Nước.
Để làm được việc này, Nhà Nước phải tổ chức một cuộc hội thảo xác định lại năm sinh của Lãn Ông và thông báo chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng để dư luận được biết.
     Bức tranh đã rõ, sai một ly đi một dặm.

Lê Hữu Khánh    

II. NHÀ NƯỚC VIỆT NAM KỶ NIỆM 250 NĂM NGÀY SINH
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC

     Năm 1970, nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1970) *. Nhà Nước giao cho Bộ Y tế chủ trì các công tác kỷ niệm ngày Đại Lễ này. Chúng tôi xin trích nguyên văn bài phát biểu của  Bác sĩ Đỗ Ngọc Thuận đăng trong cuốn Kỷ niệm lần thứ 250 ngày sinh của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, NXB Y học 1970 về sự kiện này:
“Năm 1970 thực hiện chủ trương của Đảng và Chính Phủ, nhân dân ta đã long
trọng tổ chức lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Tổ chức kỷ niệm lần này đúng vào giữa cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn quyết liệt, lúc mà bọn Đế quốc Mỹ đang mở cuộc chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, nên càng có ý nghĩa đặc biệt.
Việc kỷ niệm đó chứng tỏ nhân dân ta rất coi trọng việc thừa kế và phát huy
những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.”
Các hoạt động tiếp tục diễn ra như sau:
     “ Ở Trung ương, ngay từ ngày 20.08.1970 đã có một Hội nghị liên tịch giữa Bộ Văn Hóa, Bộ Y tế, Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội VN, Hội Đông Y VN, Tổng Hội Y học VN họp tại Bộ Y tế để bàn kế hoạch về tổ chức Lễ kỷ niệm và thành lập Ban tổ chức lễ kỷ niệm. Ban Tổ chức gồm:
-   Trưởng ban:   -   Ông  Nguyễn Đức Thắng, Thứ Trưởng Bộ Y tế
-    Phó Ban :       -    Ông  Cù Huy Cận, Thứ trưởng Bộ Văn Hóa
                       -    Cụ    Đặng Văn Cáp, Chủ tịch Hội Đông Y VN
                       -    GS.   Hồ Đắc Di,    Chủ tịch Tổng Hội Y học VN
                        -    GS.   Đặng Minh Trứ, Phó Hội trưởng Trung ương Hội Phổ biến
                            KH – KT VN
                        -    BS.    Nguyễn Sĩ Quốc,  Cục phó Cục Quân Y.
-     Ủy viên :        -    Phó Chủ Tịch UBHC TP. Hà Nội
                        -    Phó Chủ Tịch UBHC tỉnh Hải Hưng
                        -    Phó Chủ Tịch UBHC tỉnh Hà Tĩnh
                        -    Ông Vũ Kiên, Vụ trưởng Vụ công tác Chính trị, Bộ Y tế
                        -    BS.  Lê Khắc Thiền, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Y
                        -     Ông Vũ Khiêu, Viện phó Viện Triết học
                        -    Ông  Hoàng Trinh, Viện phó Viện Văn học
                        -     Ông Phan Gia Bền, Đại diện Viện sử học.
-    Ban Thư ký :   -    BS Đỗ Ngọc Thuận, Trưởng phòng Tuyên truyền Bộ Y tế
                              -    Ông Trần Huyền Kiêu, Trưởng phòng Tuyên truyền Bộ Văn Hóa
                                   -   Ông Trần Nhiên, Phó ban Tuyên huấn Trung ương, Hội Đông
                                   Y VN.
     Ban tổ chức đã gửi kế hoạch cho các tỉnh về việc tổ chức Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông, xúc tiến việc xuất bản các tác phẩm về Lãn Ông, họp báo và tổ chức tuyên truyền, học tập tinh thần và đạo đức của Hải Thượng Lãn Ông.
     Ngày 10.09.1970, tại Bộ Y tế đã tổ chức một buổi tọa đàm gồm các đại biểu của Bộ Văn Hóa, Bộ Y tế, Trung ương Hội Đông Y VN, Tổng hội Y học VN, Viện nghiên cứu Đông Y, Viện khảo cổ học, Viện Văn học, Viện Sử học, Viện Triết học để trao đổi về thân thế,  sự nghiệp và những cống hiến của Hải Thượng Lãn Ông về các mặt y học, văn học và tư tưởng.
     Trong lần kỷ niệm này, Bộ VH và UB KHXHVN đã có nhiều đóng góp tích cực. Thư viện Quốc gia liên hệ với Thư viên KH TƯ, đã xây dựng thư mục về Lãn Ông cho các nhà nghiên cứu. NXB Y học & TDTT đã cho tái bản cuốn Thân thế và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông và xuất bản các cuốn Dược phẩm vậng yếu, Lĩnh Nam bản thảo, Châu ngọc cách ngôn, Vệ sinh yếu quyết, Nữ công thắng lãm lần lượt ra mắt bạn đọc.
     NXB Văn học in lại cuốn Thượng kinh ký sự do Phan Võ dịch.
Tiếp đến là các hoạt động tuyên truyền cho ngành y tế do Quốc doanh phát hành phim Trung ương phát hành, sáng tác ca kịch về Lãn Ông do Đoàn Cải lương Trung ương biếu diễn.
     Tổng cục Bưu điện phát hành con tem chân dung Lãn Ông (1720-1970).
Đại diện các cơ quan Trung ương cử hai đoàn đại biểu về Hải Hưng và Hà Tĩnh dự Lễ kỷ niệm trọng đại nói trên.
     Ngày 11.12.1970, tại Nhà hát Lớn Hà Nội,  đã cử hành trọng thể Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Tới dự Lễ có Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, Ủy viên Bộ chính trị, các đại biểu Bộ Y tế, Bộ Văn Hóa, các cơ quan ở Trung ương và Hà Nội, đại biểu các tỉnh Hải Hưng, Hà Tĩnh và Hà Bắc. Đại diện gia đình và dòng họ nôi ngoại.
     Ông Trương Công Đồng, Đại diện đặc biệt của Chính phủ lâm thời Cộng hòa MNVN cũng về dự. Tới dự còn có mặt nhiều vị khách nước ngoài.”
     Ban tổ chức đã cử 2 đoàn đi về dự lễ tại Hải Hưng và Hà Tĩnh.
     Các hoạt động về Đại Lễ kỷ niệm đã diễn ra ở một số tỉnh thành như Hà Nội, Hải Hưng, Hà Tĩnh, Hà Bắc, Hải Phòng với tinh thần tôn kính, trân trọng, và tri ân bậc tiên tổ nghề y, nhà tư tưởng, nhà văn hóa lớn của dân tộc.
     Lễ kỷ niệm với mục đích và ý nghĩa cao cả có tầm ảnh hưởng lớn đối với nhân dân ta, nhất là giới y học nước nhà. Đại danh Y  Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không những nổi tiếng ở nước ta mà còn được vinh danh ra thế giới qua tác phẩm của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện trong Tổng tập Nghiên cứu về Việt Nam - Les Etudes Vietnamiennes, và qua các sách báo, phim ảnh, ca kịch, hội thảo thời gian này.
     Đây không phải là lần đầu tiên nhân dân ta kỷ niệm Hải Thượng Lãn Ông. Năm 1963, nhằm ngày Rằm tháng Giêng, Bộ Y tế và Bộ Văn Hóa đã tổ chức 172 năm ngày mất .
     Năm 1965, kỷ niệm 245 năm ngày sinh Lãn Ông tai Nhà Hát Lớn TP. Hà Nội. Tới dự buổi lễ có đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Công Đoàn Việt Nam và nhiều các vị Bộ trưởng, Thứ trưởng và nhiều đại diện các cơ quan đoàn thể ở trung ương và Hà Nội.
    “ Kỷ niệm Đại Lễ Hải Thượng Lãn Ông lần này được tổ chức trên quy mô rộng lớn ở các tỉnh thành quan trọng trên miền Bắc, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân địa phương. Đặc biệt thu hút các chính khách, các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, y học, sử học, triết học tham gia với tình cảm trân trọng và tôn kính vị Đại Y Tôn của dân tộc và thế giới.
     Có thể coi Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông là cái mốc quan trọng trong quá trình nghiên cứu về Lãn Ông, góp phần phát huy truyền thống  văn hóa tốt đẹp của dân tộc.”

Trích “Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác ”,
NXB Y học, 1970.

Lê Hữu Khánh,      Hà Nội  01.07.2013

Chú thích
(*) Xem trang 28.





















NHỮNG DÒNG CẢM TƯỞNG VỀ LÃN ÔNG

     Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hội tụ đầy đủ tinh hoa của Trời, Đất, Người và kết tinh thành Niềm tin Chân lý vượt không gian và thời gian.

-         Con đường duy nhất tới Chân Trời khoa học là Tri thức toàn diện.
     Vậy thì nên biết: “… Chỉ lo cái hiểu biết nông hay sâu mà thôi “.

     (Y huấn cách ngôn)

-    Niềm tin vào Chân lý khoa học:
“Tôi thà đắc tội với các bậc tiền bối,
chứ quyết không phụ cái sở học của tôi”.

     (Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh)

-         Vinh Quang và Điếm Nhục:
     ”Không có nghề nào Nhân Đạo bằng nghề y cứu sống người
     và … không có nghề nào Vô Nhân Đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”.

     (Y đức - Y huấn cách ngôn)

-    Giáo dục đức khiêm tốn để kiềm chế bon chen, tranh đua, thậm chí xung đột
     Một triết lý sống có giá trị phổ quát toàn nhân loại.
“Biết đủ không tham”  
     (Thượng Kinh Ký Sự)

-         Muốn hiểu Thiên-Địa-Nhân:
“Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu nhân tình”
 Hay  “Trông Trời mà minh Thời” 

 (Học cổ nhân trong “Vận khí bí điển”)

-         An nhàn là sáng tạo:
     Lúc rảnh rỗi ngắm cảnh vật trời đất và ngẫu hứng làm thơ, vẽ tranh, thổi sáo.
Nhàn hứng
Y gia nhàn xứ tựa thiền gia
Thâm tọa đan phòng thính lạc hoa
Bất thị xung quanh thôi vạn niệm
Thanh tâm dưỡng chính tả khu tà.

     (Y Lý Thâu Nhàn Lái Ngôn).













 NHÂN DỊP KỶ NIỆM 290 NĂM NGÀY SINH
ĐẠI DANH Y HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC (1724-2014)


THÂN THẾ & SỰ NGHIỆP CỦA
HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA


Tri ân Đấng Sinh Thành - Trời, Đất, Tổ Tiên,
Xin thắp nén hương Lòng , dâng hoa thơm ngát !


Lời dẫn

     Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791) là một Thầy thuốc của nước ta, được nhân dân và giới y học tôn vinh là Đại Danh Y, Nhà Tư Tưởng và Nhà Văn Hóa Lớn .
     Trong suốt gần bốn mươi năm làm nghề y, Hải Thượng Lãn Ông đã đem hết tâm trí của mình trị bệnh cứu người vì sức khỏe và hạnh phúc của nhân dân.
Cũng với tinh thần đó, Ngài nhận rõ ý thức trách nhiệm với tương lai của nghề y nước nhà. Xây dựng nền móng, cơ sở giáo dục, đào tạo, đồng thời sưu tập, tổng hợp, hệ thống và viết sách lưu truyền kiến thức và kinh nghiệm cho các thế hệ thầy thuốc và nền y dược cổ truyền tương lai nước nhà.
    Trên nền tảng Dịch lý, những vấn đề cơ bản mang tính nền tảng nghề y như Y đức, Y thuật và Y lý được đúc kết, Ngài đã cho ra đời bộ sách “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” một pho Bách khoa toàn thư về Y Dược học cổ truyền dân tộc, một công trình được biên soạn suốt cuộc đời với ý thức xây dựng một nền Đông Y Việt Nam bằng phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo, phản biện và tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với con người và hoàn cảnh đất nước.
     Nhờ đâu mà Hải Thượng Lãn Ông đạt được những thành tựu lớn lao như vậy. Câu hỏi được trả lời từ một số nhà nghiên cứu với những góc độ và lăng kính khác nhau, nhưng chưa phác họa thấu đáo chiều sâu minh triết, triết lý nhân sinh trên tinh thần Văn Hóa thái hòa uyên nguyên và vi diệu của dân tộc Việt từ cội nguồn. Đó là nền Văn Hóa Nông Nghiệp lúa nước của Đại Chủng Viêm Việt, Bách Việt và Văn Hóa Hòa Bình được khởi nguyên ở Thái bình Dương, rồi di chuyển lên miền Trung Nguyên nước Tàu, trải rộng từ đồng bằng sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử, cách nay khoảng một vạn hai ngàn năm.
     Nền văn hóa Việt cổ này, chúng tôi gọi là kho báu chứa Minh Triết  được kết tinh qua hơn vạn năm của Việt tộc, từ những Sơ nguyên tượng và Tiềm thức cộng thông của Nhân loại, là chất liệu nền móng tạo nên Tòa Tháp Văn Hóa Việt Nam.
     Tinh thần văn hóa thái hòa huyền diệu này nó âm thầm lưu trường trong dòng chảy của dân tộc, nó ngấm sâu vào huyết mạch mỗi chúng ta rất an nhiên tự tại. Hơn thế nữa, nó được nung nấu và thăng hoa trong tâm hồn, trí tuệ và hành động của mỗi kẻ sĩ, đặc biệt trong những kẻ sĩ dũng hoạt và bản lĩnh quyết tâm gìn giữ Hồn thiêng Sông Núi và Hào khí dân tộc. Điều đó lý giải tại sao, một dân tộc nhỏ bé nhưng vẫn đủ tâm lực và trí lực đương đầu với những siêu cường để trường tồn suốt hơn một vạn năm nay. (1)

A.   Thân thế

     Cách đây 290 năm, trên mảnh đất Xứ Đông địa linh đã sinh ra cho Dòng họ, cho Quê hương một Người con, cho Dân tộc một Đại Danh Y, một Nhà Văn Hóa lớn -  Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
     Cổ Liêu Hương, xã Liêu Xá, phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương, nay là làng Văn Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nơi sinh ra Hải Thượng Lãn Ông, tọa lạc trên đất hình quả bầu. Theo ghi chép của Cụ Tràng Thành tức Lê Hữu Hành, Đời thứ 17, trong cuốn “Gia Phả Họ Lê” năm Kỷ Hợi 1959, có dẫn:

  “Vào đời Hậu Lê, Tả Ao Tiên sinh là một thầy địa lý có tiếng, đi qua Cổ Liêu Hương thấy phong thủy đẹp, nào dòng Hồ Lô giang điền uốn quanh, nào gò  đống ẩn hiện vây lấy dải đất hình quả bầu … và kết một câu ”Cổ Liêu cái bầu thiên kim nan cầu” tức vùng đất cái bầu Cổ Liêu ngàn vàng khôn kiếm”.

     Xung quanh Cổ Liêu Hương là những cánh đồng lúa xanh bát ngát và cũng là vựa lúa của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
     Xứ Đông, vùng đất địa linh, gắn bó với cuộc đời và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất nước như Thầy giáo Chu Văn An (1292-1370), Tư Đồ Trần Nguyên Đán (1325-1390), Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330-1385), Danh Thần Nguyễn Trãi (1380-1442), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Diên Hà Bảng Nhãn Lê Quý Đôn…
     Hưng Yên, trung tâm đồng bằng châu thổ Sông Cái, đắc địa với ý nghĩa vừa Hưng Thịnh vừa Yên Bình được ghi danh vào Quốc sử - Thứ nhất Kinh Kỳ, Thứ  nhì Phố Hiến.
     Cụ Khởi Tổ dòng họ Lê Hữu, các cụ thường gọi là cụ Thủy Tổ dòng họ Lê Hữu gốc Liêu Xá (vì cụ về Liêu Xá sinh sống và phát triển), trong Gia phả ghi:

    ”Lê Quý Công tên chữ Phúc Tiên, là Giám sinh Quốc Tử giám thời Hồng Đức không ghi năm sinh, năm mất. Trong sổ Tiên Hiền của xã có ghi “Quan Giám Sinh hiệu Phúc Tiên là Tiên Sinh họ Lê (tên thứ tư), cách 22 tên ghi tiếp Ông Sinh Đồ hiệu Chinh Tín là Tiên Sinh họ Lê, lại cách 1 tên ghi Ông Sinh Đồ hiệu Chính Đạo là Tiên Sinh họ Lê… ” (Thời Hồng Đức 1460-1497)”

     Lãn Ông xuất thân trong gia đình dòng dõi trâm anh và truyền thống khoa bảng. Lần lượt từ ông nội, đỗ Hoàng giáp, bác, cha, chú, anh và em đều đỗ Tiến sĩ và đều được phong các tước Hầu, Công, Bá và chức sắc quan trọng trong các Triều vua Lê, chúa Trịnh. Tấm bảng vàng ghi rõ trên câu đối nhà thờ Cụ Thượng thư Lê Hữu Kiều:
“Lịch Triều phong tặng Hầu, Công, Bá
Kế thế đăng khoa Phụ, Tử, Tôn ”
               [ Các Triều đại phong tặng Hầu Tước, Công Tước, Bá Tước.
Các thế hệ Cha, Con, Cháu nối tiếp nhau đỗ đạt Đại khoa].

I. Trau dồi Văn nghiệp

      Lớn lên từ nếp gia phong, ảnh hưởng sâu sắc nền giáo dục Nho Giáo. Và chính cái nền giáo dục chính thống từ tinh thần văn hóa dân tộc nguyên bản ấy đã vun đắp nên nhân cách cậu bé Chiêu Bảy sau là chàng thư sinh Thuần Chẩn với những tư chất tài năng vượt trội để nuôi chí lớn.              
     Chàng thư sinh Thuần Chẩn với đức tính ham học, miệt mài chuyên sâu Dịch lý, Tứ Thư, Ngũ Kinh, thiên văn, địa lý, phong thủy, độn số, văn chương, quân cơ, võ bị, tu luyện thể chất và tinh thần để hoàn thiện các chuẩn mực giáo dục nhân cách của xã hội đương thời như cầm, kỳ, thi, họa.
      Những năm bốn mươi đến nửa cuối của thế kỷ XVIII, nước Đại Việt trong bối cảnh có nhiều biến động lớn, vua Lê ở thời mạt, Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước lâm vào nội chiến loạn lạc.

     Trong cuốn Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã cực tả cái hình ảnh “Hỗn loạn Canh Thân, Tân Dậu (1740-1741), khắp một vùng rộng lớn, người chết vạ vất đầy đường, người đói phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn, có khi ăn thịt lẫn nhau. Số phận của nhiều hạng người bị đảo lộn, ngay cả những bà góa, tiền của chất như núi cũng chịu ôm tiền mà chết …”

     Đó là câu chuyện những năm chàng trai Thuần Chẩn chưa đầy hai mươi tuổi.
Cũng vào thời gian đó, chàng thư sinh họ Lê còn được chứng kiến trong những biến cố đặc biệt nổi trội, đó là các phong trào khởi nghĩa của nông dân từ Bắc chí Nam. Chỉ tính trong vòng mười năm, suốt từ Nghệ An đến Hải Dương, đã có ngót hai mươi thủ lĩnh nông dân liên tiếp nổi dậy.
Đây là thời kỳ bùng phát tâm lý “Lòng người ước ao loạn lạc”(?). Thời đại mà số phận của những ông chúa thần quyền nghiêng thiên hạ, bỗng dưng bị tung lên, hất xuống trong tay đám kiêu binh chẳng khác trò đùa. Còn nhân dân thì không cam tâm ngồi chờ chết, quyết vùng lên đánh cược với số phận, ra đâu thì ra. (2)
     Đây là một dấu ấn bi kịch lịch sử khó quên.

II. Rèn luyện Võ công

     Chàng thư sinh Thuần Chẩn lại nghe tiếng vọng: “Binh lửa khắp nơi, con trai thời loạn há chịu ngồi mãi trong thư phòng sao???”. (Tựa Y Tông tâm lĩnh)
     Chàng thư sinh liền bỏ văn học võ, theo học Binh Thư Võ Bị suốt hai năm, các môn Thiên-Nhân, Âm-Dương thuyết  áp dụng vào binh thư, luyện võ nghệ, bài binh bố trận đều thông suốt. Từng là môn đệ của Võ Sư họ Vũ ở làng Đặng Xá. Ngay sau đó, tòng quân gia nhập quân đội Triều đình thời Lê Trịnh. Ngài đã từng bầy binh bố trận, đánh đâu thắng đó, giành chiến công lớn, được cấp trên ghi nhận và tỏ ý muốn thăng quan và ban thưởng. Nhưng Ngài đã từ chối khéo vì đã nhận ra chân tướng của cuộc chiến huynh đệ tương tàn vô nghĩa. Binh lính cũng là nhân dân đều thiệt mạng để vua chúa hưởng lợi.

B. Sự nghiệp
                                                                                                                   
I. Khởi đoan Y Đạo

   Ngẫm lại lời tự thuật: “Tôi vốn là con nhà dòng dõi trâm anh, thuở nhỏ thường chăm chỉ sách đèn, những muốn làm nên sự nghiệp lớn…” (Thượng Kinh Ký Sự).
     Vậy sự nghiệp lớn là gì khi cố gắng chăm chỉ đèn sách để thi đậu rồi làm quan trong một thực trạng xã hội rối ren đang ở bờ vực của suy tàn thì không phù hợp với tâm chí. “… tôi chạy nay đây mai đó, không thể làm người cao đạo trong đời loạn, học thói giàu có trong cái năm nghèo đói được.”  (Tựa Y tông tâm lĩnh).
   Thật là một nan đề lớn của cuộc đời.

     Ở đây ta nhớ lại giai thoại “Cuộc gặp gỡ giữa hai nhà bác học”.         
     Lê Hữu Trác và Lê Quý Đôn cùng dự thi Hương ở Sơn Nam Hạ năm Quý Hợi 1743. Kỳ thi trong bốn ngày bắt đầu từ mùng 8 đến 28 tháng 8.
Đầu đề bài văn sách như sau:
“Cai trị thiên hạ nên có phương pháp: chăm sóc đời sống cho dân, cẩn thận về các chính thể, kén chọn tướng có tài, nghiêm túc việc dùng quân. Đều là những việc trọng yếu của việc cai trị đó”.
     Quyển thi của Lê Hữu Trác được nộp lên. Các quan trường xem ai nấy đều khen ngợi, nêu tinh thần rất xác đáng, lời bàn thấu đáo, rõ ràng. Nhưng nếu vị giám khảo  nào tinh ý cũng đều nhận thấy ẩn hiện một nỗi niềm đau xót, chán chường trước thời cuộc hiện tại trong bài thi. Cuối cùng Lê Hữu Trác chỉ trúng Tam Trường, Lê Quý Đôn đỗ Giải Nguyên. (3)

     Có nhiều bình luận về sự kiện này trong bước ngoặt cuộc đời Lãn Ông, đa số cho rằng, vì chán cảnh thế sự rối ren nên Ngài bẻ tên, cởi giáp đi về ở ẩn, âu cũng phù hợp với cái tâm lý tránh bon chen của kẻ sĩ “Thời trị làm quan, thời loạn ở ẩn”(?).
     Nhưng sự thực không phải vậy, một mặt vì nuối tiếc công lao đèn sách, thế sự rối ren, chí lớn không đạt (?), mặt khác Lãn Ông lúc đó gặp phải sự cố gia đình khi có tin người anh trai Lê Hữu Đề mất sớm, để lại ba đứa con thơ và mẹ già đã bảy tuần ở chốn quê Hương Sơn. Lãn Ông liền bẻ tên cởi giáp trở về quê chịu tang anh, phụ dưỡng mẹ già và đàn cháu nhỏ.                                           
     Ngài nuối tiếc: ”Tuy đã mải miết lo toan ngược xuôi, việc mài gươm tuốt kiếm, đọc sách, khí hồng nghê muôn trượng khó bề thực hiện, khi ấy tôi có bài thơ ngẫu cảm:                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                           

“ Thập niên ma nhất kiếm
Phong nhận chính quang mang
Sát khí xung ngưu đẩu
Uy nghiêm động tuyết sương
Nhập Tần kỳ bất khả
Quy Hán diệc vị hoàng
Hải hồ không phiêu đãng
Tráng chí thành đại cuồng.
Dịch:
Mười năm mài lưỡi kiếm
Mũi nhọn tỏa hào quang
Sát khí xông Ngưu Đẩu
Oai hùng động tuyết sương
Vào Tần đã chẳng được
Về Hán cũng chưa màng
Biển hồ trôi dạt mãi
Chí lớn thành cuồng ngông.”
Lãn Ông tiếp dẫn:

     “Ngờ đâu trăm điều ràng buộc, tâm lực ngày một hao mòn, bị bệnh nặng mất vài năm. Sau đi tìm được thầy Trần Độc ở núi Thành để nhờ chữa bệnh (thầy Trần ở làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, tinh thông kinh sử nhưng thi không đậu, sau về ở ẩn làm thuốc rất thạo). Độ hơn một năm, có một hôm nhân lúc rỗi rãi tôi ngồi mở đọc sách Cẩm Nang Phùng Thị, những chỗ sâu sắc về dịch lý âm dương trong sách thuốc đều thấu suốt cả. Thầy Trần thấy tôi có năng khiếu bèn muốn dốc hết cả kiến thức của thầy cho tôi. Khi ấy tôi chưa quyết tâm học, nhưng trong khi bàn luận về những chân lý bí ẩn cũng có những điều hiểu biết thấu đáo. Vừa khi ấy, Hải tướng quân đang vây quân địch ở vùng Bào Giang. Bè bạn tòng quân nhiều. Có người đề bạt tôi, rồi tướng quân cho đem lễ vật tới triệu mời, nhân đó tôi mới yết kiến ở cửa quân. Tướng quân  bí mật bàn giao cho tôi đem đem quân dạt biển, quặt phía sau lưng địch từ phía Cao Châu xông ra, đánh úp viện quân của địch. Ngài lại nhủ rằng, việc bái tướng phong hầu chính là ở chuyến này.
Tôi thầm nghĩ, trường đời danh lợi đã gửi cho nước cuốn mây trôi từ lâu rồi, liền cố ý từ chối vì còn mẹ già không thể đi xa được.” (Tựa Y Tông tâm lĩnh)

     Thế là y nghiệp bắt đầu từ đây. Ngài về Hương Sơn, làm nhà dưới rừng, quyết chí học nghề y. Tìm tòi sách vở, miệt mài ngày đêm, vô cùng khó khăn vì không có thầy hay đồng nghiệp để hỏi han, trao đổi, duy chỉ có cách tự vấn và tự đáp qua thực tiễn.
     Đến lúc cần nâng cao, đã từng lên Kinh tìm thầy nhưng không có duyên để gặp thầy giỏi, sách hay rồi ngậm ngùi trở về chốn quê.
      Về lại Hương Sơn, Ngài lấy biệt hiệu là Hải Thượng Lãn Ông,
Lãn Ông nghĩa là Ông Lười không sống theo lối “Khảng khái tùng Vương dị“ mà là Ông Siêng theo lối “Thung dung tựu nghĩa nan”, nên ông già Lười xứ Hải Thượng không màng danh lợi
, nhưng để  vừa dày công nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, vừa tận tâm chữa bệnh cho mọi người, sau mười năm, tiếng tăm đã nổi tiếng khắp vùng Châu Hoan.
     Năm Bính Tý 1756, Lãn Ông lên Kinh Đô Thăng Long để tìm thầy cao minh và tinh thông nghề thuốc mong muốn học hỏi nâng cao tay nghề và trình độ y lý, nhưng duyên không thành. Nhân cơ hội gặp lại Diên Hà Thừa Chỉ Lê Quý Đôn sau mười ba năm cách biệt, hai tư tưởng lớn đều thành danh vui mừng khôn xiết, tâm đắc chuyện trò, xướng họa thơ ca, trà dư tửu hậu … Một thành danh nơi quan trường, một ở chốn núi rừng thâm sâu cùng cốc, cũng nổi danh như một đại y sư, tiếng vang vọng tới triều đình. Hai quan điểm sống trái ngược nhưng vẫn đạt đỉnh thành tựu trong cuộc đời.
Giây phút chia tay nhau, Hàn lâm viện Thừa Chỉ Tiên Sinh than vãn :

“Giữa thời buổi người ta xô chen giẫm đạp lên nhau mà chết chốn trường thi, thế mà bác Thuần Chẩn một người tài cao, học rộng lại không màng gì với công danh, phú quý để trở thành lão già lười đất Hải Thượng, tinh thông y lý, chuyên tâm trị bệnh cứu người thì quả là một sự lạ lùng!” (4)

     Đây là dấu ấn đáng nhớ trong lịch sử Việt Nam về tình bạn tri âm, tri kỷ quý hiếm giữa một Đại Danh Y và một Danh Thần Bác học. Hai tư tưởng, hai bản lĩnh, hai trí tuệ và hai con đường khác nhau, nhưng cùng đến một đích nhân đạo và nhân bản – Chân, Thiện, Mỹ.
     Điều đó chứng tỏ Lãn Ông đã không tìm nơi nương thân ở ẩn, ngược lại cố tránh xa Cửu trùng để yên thân an hành chính Đạo. Lãn Ông không xuất thế, tức từ bỏ đời thường, không nhập thế, tức vào quan trường để màng công danh, mà Ngài đã vượt lên cả hai hành động xuất và nhập để an hành xử thế. Bởi bản chất Đạo Việt là xử thế.  An vi chính là an hành, là hành động an nhiên tự tại, thái hòa, hành động pháp tự nhiên để thành tựu, trái với cưỡng hành ở những cộng đồng cá lớn nuốt cá bé và lợi hành ở những cộng đồng nặng về tư lợi, ích kỷ.

II. Dịch Lý

     Lãn Ông sinh ra, lớn lên và được học hành trên nền tảng giáo dục Nho giáo truyền thống với một tri thức cơ bản và toàn diện . Một trong những chìa khóa quan trọng nhất để tiếp cận và khám phá thế giới tự nhiên và xã hội đó là Dịch lý về Âm Dương Ngũ Hành cũng gọi là Thiên lý. Trong lời tiểu dẫn cuốn “Y gia quan miện”, Ngài dẫn lời di huấn của các bậc hiền triết xưa: “Học Kinh Dịch đã rồi mới có thể nói tới việc làm thuốc”, làm nghề y mà không tinh thông Dịch lý thì chớ có theo mà uổng công vô ích. Bởi Dịch lý là Đạo Trời, Đất, Người, không hiểu nó thì khác nào tìm chim đáy biển, tìm cá trên trời. Lãn Ông hướng dẫn cách học Kinh Dịch như thế nào để nắm được gốc rễ và bản chất của môn học.

      Ngài tiếp: “Nhưng nói Kinh Dịch không phải là học các hào, các quẻ hay thoán/soán từ của Kinh Dịch mà chỉ cần nắm được quy luật biến hóa của Âm Dương, sinh khắc của Ngũ hành tựa như vòng xoáy chôn ốc không đầu, không cuối, Động Tĩnh đều chung một lẽ duy nhất bởi, trong Trời Đất, vạn vật từ các loại sinh con hay đẻ trứng, hình hóa hay khí hóa, côn trùng hay thảo mộc loài nào cũng đều bẩm thụ được tinh túy của Ngũ hành rồi mới có sự sinh trưởng. Huống chi con Người là loài khôn hơn vạn vật, hấp thụ được toàn bộ tinh túy Âm Dương, đầy đủ phát dục của Ngũ hành… mà không tinh thông Dịch lý và Âm Dương Ngũ Hành thì làm sao mà hành nghề y, chữa bệnh cứu người.” (Tiểu dẫn Y Gia Quan Miện)

     Cho nên, Lãn Ông đưa mục Âm Dương Ngũ Hành lên đầu sách rồi lần lượt đến các bộ vị tạng, phủ, kinh lạc, mạch yếu … để mở đầu cho việc bước vào nghề y.
Từ nhãn quan vũ trụ động, Lãn Ông đã chiếm lĩnh chìa khóa Dịch lý để tiến xa hơn tới chân trời khoa học, đi sâu nghiên cứu các triết thuyết cổ nhân mà ngày nay gọi là những môn khoa học cơ bản như: thuyết Ngũ Hành Âm Dương, Minh Triết-Triết lý Phương Đông, Đạo Nguyên Nho, Phật Pháp (Thiền), Y lý, Thiên văn, Độn số, Địa lý, Văn chương, Thơ phú, Binh pháp, quân cơ … làm cơ sở vững bước vào thực tiễn nghề y.

     Cổ nhân phương Đông ta có câu “Ngắm trời mà minh thời” rồi “Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu nhân tình”, mới mong thành tựu (5), là kinh nghiệm được truyền miệng từ văn hóa vạn năm để muôn thế hệ biết bảo nhau mà trau dồi kiến thức. Đây là một trong những tinh thần của môn Vận Khí, Tam Tài Bí Chí, Vận Khí Tầm Nguyên kết hợp với Dịch lý để Lãn Ông viết thành cuốn “Vận khí bí điển”.
     Nắm bắt lời dạy của tiền nhân, Lãn Ông tập hợp được kiến thức xưa và thuật lại nguyên văn, sau mới có lời bình xét ở đoạn kết. Một tinh thần công minh trong học thuật và học tập đáng ghi nhận và noi theo.
     Một trong những biệt tài của Lãn Ông là cách tìm huyệt đất và long mạch trong thuật phong thủy, làm các nhà phong thủy ngày nay ngả mũ thán phục. Tìm hiểu Lãn Ông, chúng ta thấy cách bài trí nhà cửa, sân vườn trong khu vườn đào nơi Lãn Ông và gia đình sinh sống. Ta thấy Lãn Ông bố trí một trật tự phong thủy hài hòa để sống khỏe và hành nghề, ngoài khu ở, tiếp khách, chữa bệnh, lầu Tỵ huyên (nơi yên tĩnh), nhà Di chân (nơi vui thú tự nhiên) còn có đình nghênh phong để đón gió, vọng khí, có hồ bán nguyệt và hòn non bộ, nuôi chim để nghe  hót, bên hồ cắm một cây sào và buộc diều để nhìn hướng gió, nghe sáo diều để biết lực gió.
     Thử xem Lãn Ông tìm huyệt đất và long mạch thế nào. Lãn Ông bắt đầu bấm độn, xem ngày giờ, quan sát thời tiết và vọng gió. Đúng giờ và cho thả diều, diều bay và rơi chỗ nào thì đó chính là cái mình cần tìm. Đây là một môn học rất khó bởi tính độc đáo và chuyên biệt, nó kết hợp cả khoa học thực nghiệm và tâm linh. Thực ra, tâm linh cũng chẳng khó hiểu, nhưng đòi hỏi phải có một trực giác nhạy bén và sinh động, sử dụng giác quan thứ sáu để nhận biết cái tượng, cái tướng hay cái hồn của sự vật, hiện tượng, sau đó dùng các dụng cụ, lý thuyết kể trên để hành sự, sau cùng là kiểm chứng kết quả. Thuật này, Lãn Ông tuân thủ và áp dụng đúng nguyên lý ”Tại Thiên thành Tượng, tại Địa thành Hình” của Dịch Lý. Việc này không thấy có “Âm vận khí án” (?).

III. Mạch sống ngầm Dân tộc

     Đến nay nhiều người vẫn cứ tin Nho giáo là do Tàu truyền dạy cho Tổ tiên ta, nhưng qua sự khai quật của Triết gia Kim Định (1915-1997) thì ngược lại, tuy Việt và Tàu  có chung một nền Văn hoá vì đa số dân Tàu đều thuộc chủng Việt do người Tàu thôn tính Bách Việt mà sáp nhập vào.
     Nho giáo được thai nghén từ nền Văn Hóa Hoà Bình, qua Thao thiết về Vũ Hóa và Hóa Long, tới thời Tam Hoàng, rồi Nguyên Nho của Khổng Tử, mà Nguyên Nho lại  do Đức Khổng “Tổ thuật  từ nền Văn hoá phương  Nam của Đại chủng Việt.”    
Nước Tàu mới được thành lập sau này vào thời  Đế Kỷ (2697 TCN) với thủ lĩnh Hiên Viên Hoàng Đế, sau  họ Hồng Bàng 182 năm, thuộc Hoàng Kỷ (2879 TCN).  
     Nền tảng của  Nho giáo là Dịch lý, mà Biểu tượng là “Tiên Rồng gặp nhau trên Cánh Đồng Tương“  nét Lưỡng nhất này xuyên suốt nền Văn hoá Việt .
     Trong  các cuộc xâm chiếm Việt Nam, khi nào người Tàu cũng tịch thu sách vở, thu gom trống đồng, bắt hết nhân tài, nên Tổ tiên Việt, một mặt đã đem tinh thần Nho vào Văn chương truyền khẩu như Ca dao, Tục ngữ, cùng các Truyền kỳ để giúp cho người bình dân Chất gia trau dồi Nhân Nghĩa; mặt khác về phương diện Nho gia gọi là Văn gia thì Tổ tiên chúng ta cũng đã cất dấu nền tảng Nho trong Huyền thoại Tiên Rồng, trong  Linh cổ Trống Đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ, người Tàu  tuy chiếm được  Văn hoá nhưng chỉ hớt được cái ngọn 64 quẻ Dịch phần nhiều chỉ dùng để bốc phệ  (bói toán), nhâm cầm độn toán, mà không mò ra được triết lý Nhân sinh trong Nho, đó là cái tinh túy của Nho. Nhìn qua vật biểu của Tàu và Việt thì rõ, trong khi vật biểu của Việt là Tiên Rồng tức là Âm Dương, là nền tảng của Dịch, còn vật biểu của Tàu thời Hiên Viên là chim Cú, đời nhà Thương là Bạch mã là phương tiện di chuyển của Du mục, rồi  Đến đời Nhà Hán mới nhận Rồng, Rồng là Đực rựa,“ Độc Dương bất sinh “
Từ nền tảng đó mà hai nền Văn hoá Việt Tàu khác nhau : bên Việt thì “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo“, còn Hán Nho của Tàu thì “Dĩ Cường lăng Nhược“.
Đây là sự phân biệt nền tảng, nên khi đánh chiếm, người Tàu tịch thu sách vở bắt cống nhân tài để huỷ diệt Văn Hoá Việt, nhưng  mọi âm mưu tiêu diệt Văn Hoá của Tàu đều thất bại, dù không  có sách vở, nhưng mạch sống dân tộc đã được kết tinh trong văn chương truyền khẩu như ca dao, tục ngữ, các truyền kỳ…, mạch sống Nhân Nghĩa bình dân này cứ ngầm cuộn chảy trong huyết quản dân Việt, do đó mà hơn bốn ngàn năm Tàu không bao giờ khuất phục nổi.  
     Hải Thượng Lãn Ông là  một Văn gia, nhưng lại sống với Bình dân nơi thôn dã, nên hai dòng Văn hoá  Văn gia và Chất gia  kết tụ nơi Ngài, nên Ngài trở thành con Người Nhân chủ  ( Hùng Vương ) là Tinh hoa của Trời Đất, của Tiên Rồng. (6)
     Con người là chủ thể đồng thời là đối tượng của các quan hệ tự nhiên và xã hội.
Nhân sinh quan của Đạo Việt biểu hiện trong con người và nhân cách Lãn Ông.
     Con người và Nhân cách Lãn Ông là tổng hòa các nét đẹp thiên nhiên, dân tộc và Văn Hóa Thái Hòa Việt Nam, với những nét đặc trưng :   
Nhân Chủ, Thái Hòa, Tâm Linh, những đặc tính này xem ra luôn bám sát suốt cuộc đời và sự nghiệp của Ngài.
     Nền Văn Hóa Thái Hòa này đặt trên nền tảng Âm Dương hoà, cũng là nền tảng của Y lý, từ Âm Dương phát triển qua Tứ Tượng, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư, Cửu Trù, Hồng Phạm. Đồ hình và số độ Ngũ hành được dùng như Biểu tượng để diễn tả lò Tạo hóa/Tạo hóa lư hay bộ máy Huyền cơ để khám phá ra Thiên lý của Vũ trụ hòa.
Ngoài  Đồ hình và Số độ của Ngũ hành, đồ Hình Lạc Thư cũng diễn tả sự tạo Thiên lập Địa chẳng khác nào Thời - Không - Liên của Einstein, chỉ khác nhau ở chỗ bên Lạc Thư thì dùng cặp đối cực  Lẻ/Chẵn, còn Einstein thì dùng cặp đối cực Thời gian/Không gian.

C.  Cơ cấu Văn Hóa Đông Nam
I. Dịch: Nghịch số chi lý

                                                                                      Nam
                                 Hỏa                                                2
                                   │                                                  │
                   Mộc ― Thổ ― Kim                 Đông 3 ― 5 ― 4 Tây
                                   │                                                  │
                                Thủy                                               1
                                                                                       Bắc

Đồ hình và số độ  Ngũ hành

     Để hiểu Dịch Lý chúng ta phải vận dụng đến Đồ hình Ngũ hành. Ngũ hành có 4 hành xung quanh, ghép thành hai cặp đối cực :
     *Cặp đối cực hàng Dọc Thuỷ Hỏa, tượng trưng cho Nước Lửa. Nước được gán cho là nguồn gốc của Vạn vật (Thuỷ : vạn vật chi nguyên) là nguồn sống, Hỏa được xem là nguồn sáng. Hai hành đều là nguồn Năng lượng/Vật chất .
     *Cặp đối cực hàng Ngang  Mộc Kim tượng trưng cho sinh vật và khoáng chất.
Do tương tác với nhau mà các cặp đối cực tạo nên Vạn vật, cho nên khung Ngũ hành có thể xem như lò Tạo hoá hay Tạo hoá lư, tức là thế giới Hiện tượng, thế giới Hữu (4 hành xung quanh).  Các cặp đối cực đạt tỷ lệ quân bình động theo tỷ lệ 3/2 : Đông/Nam (Tham Thiên lưỡng Địa nhi ỷ số).  Đó là cơ cấu  của nền Văn Hoá Thái Hoà Đông Nam của Đại Chủng Việt.
     *Còn Hành Thổ ở giữa đóng vai trò Dung hóa giúp cho các cặp đối cực hoà hợp mà biến hoá khi đạt trạng thái quân bình động, Thổ tượng trưng cho Thế giới Vô. (Hành Thổ ở giữa, xem sau).  Người Tàu không bàn tới những thứ nền tảng này.
     Lấy một ví dụ, đun nước bằng nồi đất hay nồi kim loại để uống, để thấy cặp đối cực tương khắc Thủy Hỏa, nhưng thông qua trung gian Thổ hay Kim mà đạt hiệu quả bình thường. Mặt khác, khi các cặp đối cực tương khắc trực tiếp giao nhau, có hai trường hợp xảy ra, một là xảy ra xung lực ở trạng thái nổ, vỡ tung hay tan rã, hai là hòa với nhau, tức“Âm Dương tương thôi“ để đạt trạng thái “Âm Dương hòa” mà Biến hoá.
     Đây là sự vận động tự nhiên của vạn vật trong vũ trụ, luôn luôn tồn tại theo quy luật hỗ căn tức nương tựa vào nhau, tiêu trưởng lẫn nhau rồi hòa với nhau để đạt thế Quân bình động.
     Cho nên, có đồng hóa và dị hóa, có ức chế và hưng phấn thì mới phát sinh và phát triển.  
     Trong y học truyền thống chúng ta thấy có những sự tương tác thường xuyên của cơ thể con người, thời tiết và các vị thuốc như: tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ.
     Các Thiên thể trong Không gian nhờ  sự quân bình giữa sức Ly Tâm và Quy Tâm, mà di chuyển không ngừng trong Không gian. Trong Vũ trụ nhìn đâu chúng ta cũng thấy sự biến hoá bất biến của các cặp đối cực.

 II. Thái  hòa

     Thái Hòa là sự giao hòa của các cặp đối cực  của vạn vật tồn tại trong Vũ trụ , các cặp đối cực như Âm-Dương, Khôn-Càn, Cái-Đực, Lẻ-Chẵn, Tụ-Tán, Tĩnh- Động, Tình-Lý, Yêu-Ghét… Các cặp đối cực như Âm Dương là Nghịch số, Dịch lý là  Lý  của “Âm Dương hoà“, Đó là Nhất lý, có “Nhất lý thông“ , thì “Vạn lý minh“.
     Theo quy luật “Tham Thiên Lưỡng Địa nhi ỷ số“ (hai-ba/ba-hai),là độ chênh lệch giữa đối cực ít nhất, nên có thể xô đẩy níu kéo nhau để tạo nên thế quân bình động, nhờ thế mà Tiến hoá và Trường tồn, tạo nên cảnh Thái hòa.
Tỷ lệ cân bằng là vài ba (2 Đất 3 Trời hay 3 Tình 2 Lý ) hay Tham thiên lưỡng Địa (3 Trời 2 đất, 2, 3 là con số co dãn tuỳ từng trường hợp, không phải là con số Toán học, bởi vài ba khác 2, 3 ).
    Ví dụ như Big Bang (centrifugal) gây ra sự Dãn nở, tức là sức Ly tâm  cần được cân bằng với sức hấp dẫn vũ trụ, tức là sức Quy tâm (universal attraction: centripetal), hai lực đó có đạt trạng thái quân bình động thì các thiên thể được treo lơ lửng trên không và di chuyển theo hướng vô cùng vô tận.
 Số 2 được mang ý nghĩa Thái Hòa, Nho đã dùng biểu đồ Thái cực viên đồ, (biểu tượng Âm Dương trong hình tròn). Khi các cặp đối cực đạt thế Quân bình động thì Âm Dương hoà, nghĩa là Thái hòa.   
     Thái hòa, giản dị là biểu hiện của đạo xử thế An vi - Nhân hoà qua Tình Lý hài  hòa, khi đạt nhịp sống Thiên sinh, Địa dưỡng,  Nhân hoà thì có  Hòa bình.
     Lãn Ông đã sống an bần lạc đạo, ứng xử như Đạo Lạc/Đạo Nước/Đạo Nác của Tổ Tiên Lạc Việt. Sống và ứng xử  sao cho  Nhu – Cương được kết hợp như Nước thì đã đạt chân lý rồi.
     Hãy xem phong cách Lãn Ông có phải là Lạc dân /dân nước xuất thân từ quê hương lúa nước? Có phải Lãn Ông thường uống nước mưa, tắm nước sông, bắt cua cá trên ruộng  lúa nước, để rồi uyển chuyển, mềm mại như nước (như câu ví “Anh hùng khi gặp khúc lươn, khi Cuộn thì Vắn, khi Vươn thì Dài”).
Hễ cần thì mạnh mẽ như hồng thuỷ, cuốn trôi mọi rác rưởi, bình thường thì cuộc đời an nhiên tự tại như gió heo may thoảng trên Trời trong, hay dòng nước lững lờ bên suối vắng.

III. Nhân chủ

     Nhân Chủ là hệ quả của cặp đối cực Thiên/Địa kết thành, Thiên: 1 (Lẻ), Địa: 2 (Chẵn) , Nhân : 3 (1+2 = 3). Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân, Tài Nhân cũng ngang hàng và bình đẳng với hai tài Thiên, Địa, bởi con người cũng là một Tiểu Vũ trụ.
     Bài vịnh Tam tài của Chi sĩ Trần Cao Vân cho chúng ta hiểu rõ về Tam tài :

Trời Đất sinh Ta có Ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất  ba Ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ Đồng
Đất nứt, Ta ra, Trời chuyển động
Ta thay Trời, mở Đất mênh mông
Trời che, Đất chở, Ta thong thả
Trời , Đất, Ta đây, đủ Hóa công.

     Vấn đề quan trọng của con người là định được vị trí của mình trong vũ trụ.
Nếu bị kéo lên Trời thì bị phụ thuộc và làm nô lệ cho Thần Thánh, lúc đó trở nên nhỏ bé, bất lực và chỉ biết có nài nỉ, cầu xin. Rơi vào Duy Tâm.
Nếu bị Đất đạp xuống thì hóa vật chủ, làm nô lệ cho vật chất, ngược với Trời/ chống Trời. Rơi vào Duy Vật.
     Còn thứ nữa là Duy Nhân, trên đời con người chỉ biết có mình, không coi Trời cao Đất rộng ra gì, con người quá to lớn (coi trời bằng vung). Rơi vào Duy Nhân.
     Chỉ  khi con người giữ được vị thế cân bằng động giữa Trời và Đất thì không Duy Tâm, chẳng Duy vật, cũng chẳng Duy Nhân, không rơi vào đâu cả mà vượt lên cả ba thứ đó để thành con người Nhân Chủ. Con Người có đạt được vị thể cân bằng giữa cặp đối cực Trời Đất  thì mới Tự chủ, muốn duy trì vị thế tự Chủ thì phải  tự Lực và tự Cường, nhờ đó mà  con người có khả năng làm chủ đời sống mình gia đình mình và đất nước mình. Đây là vấn đề hệ trọng nhất của con người. 
(Đất nước chúng ta đã thất bại vì không duy trì được vị thế của con người Nhân Chủ này.) (7)
     Ngay từ khi còn là chàng thư sinh đi thi Hương, tinh thần nhân chủ đã thể hiện rất rõ trong con người Lãn Ông. Đó là cảm nghĩ về thế sự rối ren được mô tả trong phần cuối của bài thi.
     Đó là gác bút nghiên theo học võ bị, quân cơ, bầy binh bố trận … Đến bước ngoặt quan trọng là cởi giáp bẻ tên trở về nơi thâm sâu cùng cốc, vui thú cùng núi rừng, làm thuốc chữa bệnh. Và cứ như thế, con người nhân chủ luôn luôn an nhiên tự tại vững bước trên chính đôi chân vạn dặm của mình tới cõi vô cùng.

IV. Tâm linh

Số độ Ngũ hành

     Để tìm hiểu về Tâm linh  chúng ta phải dùng Số độ Ngũ hành.
Theo số độ của Ngũ Hành , nếu ta vẽ  4 ô :   ô  Thuỷ (1); Hỏa (2), Mộc (3), Kim (4) bao quanh ô Thổ (5) ở giữa. Khi tách 4 ô xung quanh ra thì ô 5 trống không , nên Thổ (số 5) tượng trựng cho Vô (Tâm linh). Qua đó chúng ta có thể gọi 4 ô xung quanh là thế giới Hữu, thế giới Hiện tượng có tính chất Động, còn ô giữa là thế giới Vô, thế giới Tâm linh, thế giới Tĩnh.
     Khi ra sống ngoài thế giới Hiện tượng chúng ta phải dùng Lý trí để Ly Tâm hay ”Suy Đi“, còn khi quay về thế giới Tâm linh thì phải Quy Tâm hay “Nghĩ Lại“ để mà Tu Tâm hầu cảm nghiệm, rồi thể nghiệm Thiên lý. Thế giới Tâm linh (Tĩnh) và Hiện tượng (Động) cũng là cặp đối cực của Thái cực. Khi cặp đối cực của Thái cực Âm Dương kết thành Lưỡng nhất thì là VÔ CỰC, tức là
“Đại Đạo Âm Dương hoà“. VÔ này là Chân không diệu hữu, chứ không là cặp đối đãi Vô - Hữu nữa.
     Tóm lại, nền Văn hoá Việt không chỉ có văn học, nghệ thuật, mà là một Triết lý Nhân sinh gồm:
          1. Một Vũ trụ quan Động, biến hoá theo Dịch lý
          2. Một Nhân sinh quan Nhân chủ, Thái hòa
          3. Một Đạt quan Phong Lưu, An nhiên tự tại.
     Hải Thượng Lãn Ông quả là một con người Toàn diện.  (8)


V. Y Lý cũng là Dịch Lý  “ Âm Dương Hoà “ 

     Tâm linh của Đạo Việt là huyền diệu, vi diệu chứ không huyền ảo, bởi nó xuất phát từ nguyên lý Dịch, Đạo Trời Đất nên hội tụ đầy đủ những quy luật tự nhiên của vũ trụ được  ăn sâu vào tinh thần văn hóa Việt tộc.
     Con người là một Tiểu Vũ trụ, nên cũng là một bộ máy huyền vi, sinh lý của cơ thể con Người cũng tuân theo Dịch lý.  Khi mọi cơ quan trong con Người đạt thế Âm Dương hoà thì khỏe mạnh, ngược lại thì bị bệnh tật.  Cái khó  của  Lương Y là làm sao  cho bộ máy  Âm Dương huyền diệu “ bất hoà “  trở thành
“ hòa “.
     Lãn Ông đã dùng Dịch lý một cách điêu luyện để chẩn mạch và bốc thuốc. Ngài đã áp dụng sáng tạo từ những phương pháp chữa bệnh, bốc thuốc kinh điển của cổ nhân thành những phương pháp chữa bệnh và phương thuốc mới phù hợp với hoàn cảnh khí hậu và con người Việt Nam.

     Làm thế nào mà Lãn Ông lại có những phép thuật huyền diệu như vậy. Nếu không có cái chí dũng hoạt, bản lĩnh nhân chủ và trí thông minh mẫn duệ thì làm sao có thể tiến sâu vào bể y học mênh mông với một khối lượng đồ sộ trước tác, sách vở Đông Tây Kim Cổ. Thế rồi đọc, học, tự vấn, tự đáp rồi nhập tâm thì vẫn chưa đủ, vấn đề ở chỗ phải rút gọn, lược bỏ rườm rà, cô đọng, biến hóa và biên soạn thành sách để người đọc dễ tra cứu, khi đó cái sở học mới hanh thông.

    “Mọi (sở học) phải sáng rõ, dung hóa, tùy cơ ứng biến, thâu nhập vào tâm, thấy rõ ra được ở trước mắt; (có thế) thì tự nhiên ứng vào tay mà không phạm sai lầm” (Tập Y huấn cách ngôn).

     Có nhiều vấn đề sau khi nghiên cứu, tìm tòi, Lãn Ông không thỏa mãn với những giải đáp có hạn trong sách vở, Ngài phải tự tìm đến tận gốc rễ mới thôi. Lãn Ông tâm sự:

    “Tôi muốn sao cho sự hiểu biết (của mình) đến nơi đến chốn mới khỏi hổ thẹn. Nhưng vốn đã không có tài thiên bẩm, lại không có thầy dạy, nên sự học càng thêm thụ động lại quê mùa. (Vậy mà) đành phải ôm lấy cái chí đi đến cội nguồn (học vấn), chứ đâu có chịu rơi vào cảnh lạc đường giữa bể học mênh mông không có bến bờ” (“Phàm lệ” Y tông tâm lĩnh) (9)

    Trên cơ sở Dịch lý vững chắc, Lãn Ông thẳng thắn phê phán những thầy thuốc thấp tay và thiếu trách nhiệm khi bó tay trước bệnh nan y hay khó chữa, rồi thoái thác cho “mệnh”. Ngài đã đề cao tinh thần“Đức năng thắng số” để khích lệ tính tự chủ, tự tin và quyết tâm vượt khó. Từ đó xóa bỏ lối nghĩ, quan niệm giáo điều và hủ tục lạc hậu làm cho y đạo thêm sáng.

     Năm Canh Thìn 1760, Lãn Ông mở trường dạy học, đào tạo thế hệ thầy thuốc tương lai. Viết sách, khao khát cái kiến thức hèn mọn của mình được phổ biến rộng rãi, vô tư, không dấu diếm. Lãn Ông suy tư, việc trước thư lập ngôn không phải là chuyện dễ, ngạn ngữ có câu: “Cho thuốc không bằng cho phương” bởi, cho thuốc chỉ cứu được một người, còn cho phương thì để lại điều Nhân mãi mãi. Ngài  suy nghĩ và cân nhắc rất kỹ lưỡng. Đặc biệt, nêu ra những sai lầm của những danh y thời trước để rút ra bài học kinh nghiệm cho đời sau.
     Đây là tư duy khoa học tiến bộ, thể hiện tư tưởng khai sáng, là nguồn cảm hứng cho những ý tưởng sáng tạo trong mỗi ngành khoa học ở mọi thời đại.  
Lãn Ông truyền nghề giản dị, ân cần nhưng rất kinh điển với tinh thần “người đi trước rước người đi sau”, nhằm khuyến khích toàn dân học tập.   
     Nghề thầy thuốc cổ truyền dân tộc là một nghề không có đối thủ cạnh tranh về mức độ khó khăn và phức tạp trên mọi phương diện. Lương y theo Dịch lý là biểu thị nét Lưỡng Nhất hay là sự tổng hòa giữa hai yếu tố ngược nhau thành  một chỉnh thể, vừa đảm nhiệm chức năng chữa bệnh, vừa đảm nhiệm chức năng làm thuốc, bào chế thuốc và chăm sóc bệnh nhân đến khi khỏi bệnh. Đối chiếu sang bên Tây y thì lương y bằng bác sĩ, dược sĩ, hộ lý cộng lại (và hơn thế nữa).
     Đó là một nghề với chức năng chữa cả căn bệnh và người bệnh, tức chữa bệnh cho con người một cách trọn vẹn.
     Người lương y, trước hết, xét trên diện rộng, phải là con người toàn đức toàn tài, có lòng nhân ái sâu rộng. Tinh thần của Đạo Nho được Lãn Ông đề cập trước tiên như kim chỉ Nam cho người thầy thuốc. Theo y đạo của tiền nhân, người thầy thuốc phải thấm nhuần y đức, nắm vững y lý và giỏi y thuật. Lãn Ông trong tác phẩm “Y huấn cách ngôn” đã trước thư thấu đáo về đạo đức nghề y :

“Khi học nghề y, phải nên thấu suốt cả Nho lý. Một khi đã thông Nho lý rồi thì học y sẽ được dễ dàng hơn.” Ngài tiếp:
 “Nhân là đức tính cơ bản của nghề y, đòi hỏi trách nhiệm tối cao, bởi sự sống chết, họa phúc đều ở tay mình xoay chuyển. Lẽ nào người thiếu bản lĩnh, trí tuệ không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm trí không khoáng đạt mà dám theo đòi bắt chước nghề y”.

VI. Lương Y như Từ Mẫu

1. Đạo Hiếu

     Đạo hiếu là Đạo cao quý nhất của loài người. Đó là bản năng sinh tồn về sinh học, sau được nhân loại văn minh tôn vinh như một giá trị cao quý của Đạo làm người còn gọi là Nhân Đạo. Hãy quan sát các con vật ríu rít nấp dưới đôi cánh mẹ, rúc đầu, chúi mũi vào vú mẹ, rồi đến đứa trẻ sơ sinh quờ tay, rúc đầu tìm vú mẹ bú chùn chụt… Tất cả những sinh linh ấy khi có biến động hay bị đe dọa đều tìm đến sự che chở và bảo vệ của mẹ. Sau này sướng khổ, sầu bi đều kêu mẹ, kêu cha. Đạo hiếu bắt đầu từ đó. Ai sinh ra trên đời cũng đều phải biết ơn Đấng sinh thành, gần nhất là Cha Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên rồi đến Trời Đất.
Nếu không thấu hiểu cái Đạo đầu tiên này thì những Đạo tiếp theo đều trở nên vô nghĩa. Thiên hạ mới tồn tại người Có Hiếu và người Bất Hiếu là vậy.
     Đạo hiếu của Lãn Ông với gia đình thời đã dẫn. Ở đây, chúng tôi muốn chia sẻ một nghĩa cử của Ngài khi tri ân các vị Tiên Sư Y Tổ từ thời thái cổ nước ta.
     Trong “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” có bài “Lễ nghi phụng sự Tiên sư về Y Dược”, Tập Thủ - dịch giả: Đình Thụ Hoàng Văn Hòe với sự cộng tác của Hoàng Đình Khoa, NXB Khai Trí , Sài Gòn 1972. Trong y thư, Ngài tâm sự cái sở học của mình trải qua bao gian khó và cuối cùng nhờ đọc được sách hay và vận dụng ngay vào chữa bệnh rồi thành công. Ngài viết: “… Vì thế tôi cảm kích, vẽ thần tượng Đức Trương Công, tác giả bộ Cẩm Nang, dọn sạch một chỗ làm thư viện, sớm tối hương đăng để báo ơn đức độ của Ngài. Lãn Ông còn lập kế hoạch tiết kiệm tiền hàng năm để có một khoản chi tiêu cho các lễ nghi phụng sự. Xắp đặt vị trí theo sách của các Tiên sinh hướng dẫn bài trí trên các ban thờ thật chính vị và kính cẩn. Ngài tiếp: “Nay nghi lễ như sau, để các bậc quân tử về sau có chí y dược nên nghĩ đến nguồn gốc. Thứ tự trên dưới, bên tả, bên hữu, phía đông, phía tây của các vị Tiên Thánh, Tiên Hiền do Tiên Sinh bài trí”. Sau đó là kể tên các tòa và các vị y tổ tương ứng với từng vị trí, để các môn đệ xắp xếp. “Tất cả gồm có 3 vị Thánh Đế sáng chế ra Y Dược là: 1. Đức Thần Nông Thánh Đế, 2. Đức Phục Hy Thánh Đế, 3. Đức Hoàng Đế Thánh Đế, 12 vị Thánh sư, 1 Thần vị tiên sư và 232 vị Hiền sư, Tiên sư và Tiên sinh. Tổng cộng là 248 vị đều được ghi danh và tước vị.” (10)
     Như vậy, qua việc thờ phụng Đấng khai thiên lập địa và Tiên Tổ nghề y, với lòng biết ơn và trân trọng, Lãn Ông đã để lại cho hậu thế những bài học về Đạo Hiếu truyền thống cho muôn thế hệ giữ gìn và phát triển.

2. Lương Y như Từ Mẫu

     Lãn Ông luôn truyền đạt và nhắc nhở cho hậu thế, Đạo làm thuốc là đầu mối của đạo đức chân chính, là nghệ thuật của lòng Nhân ái.
      Suy nghĩ về “Bốn chữ - Từ, Tế, Hoạt, Nhân”, bồi đắp “Tám chữ – Nhân, Minh, Đức, Trí, Lượng, Thành, Khiêm, Cần”, tránh mắc “Tám tội – Lười, Keo, Tham, Dối, Dốt, Ác, Hẹp, Thất đức”, là những chuẩn mực luân lý, đạo đức vẫn nguyên giá trị cho tới ngày nay.
     Những giáo lý mẫu mực luôn thể hiện trong những công việc hàng ngày của y gia, như đức tính bền bỉ, đào sâu suy nghĩ, khắc phục khó khăn, tận tâm cứu chữa, còn nước còn tát… Ngài thẳng thắn phê phán kịch liệt thói khinh thường, bắt chẹt người bệnh; dấu nghề, dấu dốt của thiểu số tà y.
 Từ đáy lòng lãn Ông chia sẻ:

Phải đâu vất vả mong ơn huệ
       Trong đáy lòng ta cốt cứu người.”
“Quên mình cứu chữa người ta,
Ngoài ra tất cả đều là phù vân.”

     Ngày nay, có nhiều thầy thuốc đồng lòng đi theo Lãn Ông, đứng trên thế kiềng ba chân của  Y Đức, Y Lý và Y Thuật vững chãi để hành Y Đạo, đó là tiếp thu truyền thống quý báu của tiền nhân, không những về chuyên môn mà trọn vẹn đạo đức văn hóa thái hòa dân tộc. Nhưng tiếc thay, Đất Nước hiện đang trong cơn khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện về cả văn hóa, đạo đức lẫn lối sống. Xuất hiện một số đáng kể những thầy thuốc không thấm nhuần y đức, rơi vào cám dỗ vật chất tầm thường, tự hạ thấp nhân cách, làm mất uy tín ngành y và lây nhiễm tiếng xấu toàn xã hội. Đây là một nan đề lớn mà các thầy thuốc cùng chung trách nhiệm.
                                                      
VII.  Y nghiệp  lưu truyền

1.     Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh

     Sau mười năm biên soạn với gần bốn mươi năm kinh nghiệm, năm Canh Dần 1770, Lãn Ông cho ra đời bộ sách “Lãn Ông Tâm Lĩnh” sau đổi thành “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển, cùng với thực tiễn lâm sàng phong phú, là một Bách khoa thư đồ sộ và toàn diện về Y học cổ truyền dân tộc Việt Nam thời Trung Đại, thế kỷ XVIII. Đây là một cống hiến quan trọng cho sự phát triển của y học nói riêng, khoa học tự nhiên và xã hội nói chung, đồng thời là một di sản văn hóa y học mẫu mực của dân tộc và thế giới để cho hậu thế kế thừa và phát triển.

      “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” đóng góp một vị trí trang trọng vào bộ sách dân tộc như là cầu nối giữa các thế hệ thầy thuốc và quảng đại quần chúng với văn hóa sức khỏe, “sức khỏe quý hơn vàng“.
     Hoài bão của Lãn Ông là “chỉ muốn người đời không có bệnh”, nên Ngài luôn luôn phấn đấu để chiến thắng bệnh tật, bớt đau khổ và hạn chế chết chóc.  
     Tinh thông, sáng suốt và sáng tạo y lý trên nền tảng lý thuyết Kinh Dịch, Âm Dương Ngũ Hành. Cũng trên tinh thần đó tư duy khoa học của Lãn Ông hình thành vũ trụ quan và nhân sinh quan từ những quy luật và nguyên lý về khởi, sinh, thành, diệt của vạn vật, phục vụ lý thuyết biện chứng luận trị của Đông y.
Nắm vững tầm vĩ mô của Đại Đạo. Coi trọng cái Tượng hơn cái Hình qua bản chất và cơ cấu của sự vật, hiện tượng và con người (biết-hiểu-biện-thâu).
Áp dụng thường xuyên, liên tục những bước cơ bản của Quá trình nhận thức trong giáo dục nhân cách các thế hệ thầy thuốc kế cận - Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nguyên lý xây dựng và hình thành nhân cách này cũng có thể áp dụng cho sự ra đời một sản phẩm hay một quá trình kinh doanh, bắt đầu từ khâu thăm dò thị trường, quyết định đầu tư, sản xuất, dịch vụ thương mại và tiêu thụ sản phẩm.

     Giáo dục đức khiêm tốn để kiềm chế tranh đua, bon chen, thậm chí xung đột - “Biết đủ không tham” - Một triết lý sống có giá trị phổ quát toàn nhân loại.

     Trong phần đầu bộ sách lớn Y tông tâm lĩnh, Lãn Ông có chọn lọc chín câu cách ngôn của các thẩy thuốc quá khứ, sắp xếp lại, viết thêm lời bình luận, và đặt thành một chương: Y huấn cách ngôn. Người đọc sách có thể hiểu ngầm dụng ý của tác giả: muốn đọc Ngài, trước hết phải hiểu con người và "phương châm thực hành y lý", "nói chí mình" của Ngài. Đó là tiếng nói của lương tri, những bài học xương máu từ nhiều thế hệ đúc kết lại, trong đó có bài học xương máu của chính Lãn Ông. (11)
     Lãn Ông truyền đạt tinh thần thuyết nhân quả khi hành đạo làm thuốc: “Đạo làm thuốc là giữ gìn mạng sống, là đầu mối của đạo đức chân chính”. Qua nghề y người ta có thể bồi đắp chữ “Đức” được cao dầy nếu hết lòng vì người bệnh. Ngược lại, nếu lạm dụng để vô ý hay hữu ý gây hại thì mắc tội “Thất đức” không nhỏ.

     Ngài phàn nàn: “Than ôi, đem nhân thuật mà làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi thành buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn, không thể tha thứ được”. Có thể nói: ”Không có nghề nào nhân đạo bằng nghề y cứu sống người, nhưng cũng có thể nói: không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức”. (Y đức - Y huấn cách ngôn)

     Vừa nêu lên những lời dạy bảo chí tình, chí lý, lại vừa nghiêm khắc chỉ rõ những đối tượng, những hành vi cần phải răn dạy; chu đáo, cẩn thận và tâm lý. Khi đọc đến chương Y huấn cách ngôn của Lãn Ông chúng ta nghĩ đến mười lời thề của Hippocrate, Thánh Y cổ Hy Lạp (460 - 375 ? TCN), mà sau này y học phương Tây vẫn dùng làm lời thề danh dự cho các thầy thuốc trước lúc ra trường. Chúng ta phải ngạc nhiên đến khâm phục trước những nét tương đồng ở tầm cao trí tuệ và chiều sâu tâm hồn của hai bậc đại y tôn.
     Hai con người sinh ra ở hai phương trời xa cách nhau, sống cách nhau hơn hai thiên niên kỷ, đương nhiên chẳng có mối liên hệ hiện diện nào, nhưng lại có nhiều điểm tương đồng trong suy nghĩ. Phải chăng, hai tâm hồn có cùng tần số dao động đã gặp nhau trong Tiềm thức cộng thông nhân loại, người xưa thường nói duyên kỳ ngộ, rồi nay ta gặp vô số những hiện tượng gọi hồn, áp vong thì cũng chẳng có gì là lạ.  Năng lượng tâm linh đến nay khoa học cảm xạ vẫn chưa có dụng cụ để đo tốc độ và độ lớn, bởi nó chuyển động siêu tốc vượt không thời gian.

     Trong Y huấn, Mục 10, Lãn Ông viết : « Đạo làm thuốc lại chia làm hai ngả Vương Đạo và Bá Đạo. Vương Đạo là đạo làm thuốc (Y Đạo), bá Đạo là thuật làm thuốc (Y Thuật). Vương Đạo thời lấy gốc tìm nguồn để chữa bệnh mà không chữa vào mệnh. Bá Đạo thời chữa đầu chữa chân, tức chữa ngọn không chữa gốc ». Đó là lý thuyết, đặng Lãn Ông than phiền :

     “Ôi ! nghề thuốc đâu phải có Vương Đạo hay Bá Đạo, chỉ lo cái hiểu biết nông hay sâu mà thôi. Cho nên, người hiểu nông chỉ biết lấy tạng phủ, khí huyết làm âm dương, lấy tâm thận làm thủy hỏa, không biết chân âm tức chân thủy làm căn bản cho huyết ; chân dương tức chân hỏa, làm gốc cho khí ; ấy đều là thủy hỏa vô hình của tiên thiên, căn bản của sự sống, cội rễ của tính mệnh, làm cương lĩnh chủ yếu cho các bệnh. Người ta tìm sự sống, thầy thuốc chữa bệnh, không ngoài thủy hỏa ấy được”.

     Chúng ta càng khâm phục trí tuệ của Lãn Ông trong cách tiếp cận những vấn đề gốc rễ, cơ bản của khoa học.
     Vương Đạo chính là phép trị dân theo Đức trị của Nho giáo, là hướng con người sống với nhau có tình (Âm) có lý (Dương), phải người phải ta, con hiếu với cha mẹ, anh em, vợ chồng yêu thương đùm bọc, cộng đồng hòa với nhau chung sống ... của văn hóa thái hòa.
     Khi nói đến nguyên nhân gây bệnh, bao giờ Ngài cũng nhìn cả hai phương diện: khách quan và chủ quan. Ngài không tách rời người bệnh với môi trường.     Theo Ngài, việc học tập các sách thuốc của Trung Quốc đời cổ là cần, nhưng không nên cứ nhắm mắt áp dụng. Vì phương Bắc và phương Nam khác nhau về khí hậu, người Bắc người Nam khác nhau về cơ thể gầy béo, chắc chắn có những bệnh phương Bắc có, phương Nam không có, có những phương thuốc người Bắc dùng tốt, người Nam không thể dùng (Ngoại cảm thông trị). Ngay trong cùng một miền, xưa và nay cũng đã không đồng nhất" ("Tiểu dẫn" Đạo du vận). Thậm chí trong cùng một miền, cùng một thời và cùng một loại bệnh, thì đối với từng người việc định bệnh cũng phải phân biệt, "già trẻ khác nhau, mạnh, yếu khác nhau, khí bẩm khác nhau, bệnh mới bệnh cũ khác nhau. (Ngoại cảm thông trị).(12)
     Không thể không ghi nhận một tinh thần tự chủ, và phần nào một thái độ hoài nghi khoa học, đã được thể hiện nhất quán trên toàn bộ sự nghiệp của nhà danh y. "Đọc sách của Trọng Cảnh nhưng không theo phương của Trọng Cảnh" (Ngoại cảm thông trị), đó là câu nói cửa miệng của Lãn Ông.  Phản biện, vạch ra sai lầm của Biển Thước, cho rằng huyệt mệnh môn nằm ở thận phải. Bằng y lý sắc bén Lãn Ông phân tích mệnh môn hỏa như là Thái cực trong tiểu vũ trụ con người, nó nằm ở khoảng giữa hai quả thận. Được các y gia hiện đại kiểm chứng và công nhận (BS. Hoàng Văn Sĩ, “Luận về Học thuyết Thủy Hỏa của Hải Thượng Lãn Ông vận vào chẩn đoán và điều trị”. NXB Từ điển Bách khoa 2006). (Thủy Hỏa 25 chương – Y hải cầu nguyên)
     Vì thế, Ngài đã không rơi vào con đường hời hợt, rập khuôn của nhiều thầy thuốc khác, sách nói sao thì hay vậy. Trái lại, Ngài đã đem vào trong cái vốn học thuật cả tâm hồn, trí tuệ, làm cho cái vốn chết ấy sống dậy, nhân lên rất nhiều lần. Đặc biệt, từ những kiểm nghiệm trong thực tiễn lâm sàng, đôi khi Lãn Ông còn tiến xa hơn, coi trọng sức mạnh của lý tính, và nghi ngờ thuyết định mệnh.

     “Điềm lành điềm dữ thật ra chỉ là sợi dây huyền bí của những chuyện báo ứng hão, còn cái chết thì mới đúng là nỗi đau xót trước mắt. Cho nên hễ gặp một chứng bệnh không chữa được, tôi tuyệt không dám vì cớ không chữa được mà chối từ, mà chỉ lấy tình thực bảo với người nhà bệnh nhân, rồi bóp bụng vắt óc, lo tìm thang chạy thuốc, giành cái sống từ trong chỗ chết, dốc sức cứu vãn người bệnh cho đến khi dương khô âm kiệt mới thôi" ("Tiểu dẫn" Y âm án) (13).

      Con người là tổng hòa các yếu tố tự nhiên và xã hội, với cơ cấu CON + NGƯỜI.
Nhiệm vụ của thầy thuốc là phải chữa trọn vẹn CON NGƯỜI, đó là tinh thần chủ đạo của Y đạo, nghệ thuật của lòng nhân ái.

2.     Y  Án

     Y án gồm Dương Án là những bệnh Lãn ông cứu sống; còn Âm Án là những bệnh không cứu sống được. Đó là lối truyền kinh nghiệm cả hai mặt. Ở đây Lãn Ông điều chỉnh cặp đối cực Âm Dương, sao cho ổn định  và phát triển yếu tố tích cực Dương, giảm yếu tố tiêu cực Âm theo tinh thần Dịch lý.

a.     Y Dương án

     Trong lời Tiểu dẫn Y Dương án là những lời tâm sự từ đáy lòng về y nghiệp từ khi mới vào nghề đến khi thành thục có thể chia sẻ, truyền đạt thông tin, trao đổi kinh nghiệm, cổ xúy y đạo. Lãn Ông viết:

     “… không tiếc công phu, bén mùi y học, càng thấy say sưa mới bắt tay chữa bệnh, trước chữa người nhà, sau chữa người ngoài, đã được nhiều phen kinh nghiệm. Trong một năm chữa khỏi hàng ngàn bệnh, không lấy gì làm khó, cũng có một vài bệnh khó rồi cũng phải tìm hết ra ngoài khuôn pháp rồi cũng chữa nổi. Nhân đó chép thành nghiệm án, không biết rằng tự sức mình suy nghĩ được mà thành công chăng? Tôi vẫn không dám đem ý kiến của mình mà khoe với ai, chỉ cốt là ghi lại làm một tập nghiệm cho mình và cho nhà mình đó thôi.”

     Lãn Ông tâm sự những câu chuyện cảm động, day dứt lương tâm với những tình huống nghịch lý khó xử. Nhưng với bản lĩnh, kinh nghiệm và lòng vị tha, mọi sự được giải quyết êm ấm. Đó là chuyện chữa bệnh cho một cháu bé gái bị đậu mùa con gia đình thuyền chài nghèo khổ; rồi đến những nghịch cảnh khác như gặp phải viên thầy thuốc họ Lâm hợm hĩnh, hách dịch lại ghen ghét, đố kỵ tài năng, Lãn Ông lần này thì không bình tĩnh nổi :

     “Tôi thấy họ Lâm chọc tức, lòng muốn cứu sống người bệnh bốc lên mười phần thì lòng căm giận cũng bốc lên mười phần”.

b.    Y Âm án
.
     Trong lời Tiểu dẫn Y Âm án là một y thư đặc trưng khác biệt với các tác giả từ xưa tới nay, y thư  phân tích, đánh giá và tự nhận sai lầm, khuyết điểm. Sau đó kiểm điểm sâu sắc, nghiêm túc sửa sai, rút kinh nghiệm và làm bài học cho hậu thế. Lãn Ông viết:

     “Nghề thuốc là nhân thuật, thầy thuốc hẳn phải lấy việc giúp người là  việc hay. Cứu được một mạng thì hoa chân múa tay để biểu dương cho người biết; lỡ có thất bại thì lại giấu im đi, ít có người không dấu cái điều xấu của mình mà dám đem sự thực nói với người khác. Riêng tôi dám nói là thoát khỏi cái thói đó chăng?... Trong khi chữa bệnh đã nhiều phen xoay dữ làm lành, cứu chết ra sống biết bao nhiêu người, mà bó tay chờ chết, cũng không phải là ít.”
“Tuy theo nghề y nhưng không hám chữa bệnh lắm đâu, vì e rằng chữa nhiều thì dễ lầm nhiều, nhầm nhiều thì âm càng nhiều, đâm ra làm phúc mà rước họa, nên chăng?”

     Trong số những trường hợp phải bó tay, có một trường hợp được ghi ở Bệnh án số 4, tập Y âm án.
     Một lần, có vùng Nghệ An có loạn, Lê Hữu Trác đem gia đình chạy đến núi Thành. Một nhà phú hộ ở đấy có người vợ bị bệnh thũng, liền đón ông đến, cho ở nhờ, để chữa bệnh cho vợ mình luôn. Lúc đầu êm thấm, vì gặp thầy giỏi bệnh giảm hẳn, ai cũng mừng. Nhưng rồi sau, Lãn Ông thấy “lòng như lửa đốt, nằm ngồi như kim châm”, lại thêm có chỗ không được vừa ý, lòng dạ tức đầy, chán không muốn chữa. Ngài bỏ đi mặc cho gia đình người bệnh níu lại:

     “Cả nhà này nghe tôi nói xong , có ý lo sợ. Người chồng quỳ xuống van lơn hết cách, cố ý giữ tôi lại. Tôi càng bực mình thêm và bỏ đi. Biết không giữ được, bèn sai bốn năm người đày tớ chạy theo đưa tôi về”.

     Kết quả: vì không còn thầy hay, người bệnh ốm nặng trở lại, mười hôm thì chết. (14)
Tại sao Lê Hữu Trác lại bỏ đi? Hình như Ngài cũng lúng túng. Ngài băn khoăn tự hỏi và đồ rằng có lẽ tại số người kia xui nên vậy. Nhưng nói gì chuyện số mệnh ở đây, khi mà chính Lê Hữu Trác, viết lời đề dẫn làm tư tưởng chủ đạo tập sách đã bác bỏ định mệnh? Và sao lại có thể chán nản riêng một trường hợp đó thôi, khi mà ở mọi bệnh án khác trong sách, Ngài đều hết lòng "giành cái sống từ trong cái chết" cho người?

     Sau hàng chục năm học hỏi, chữa bệnh, nghiên cứu, trải nghiệm, Lãn Ông đã có một kiến thức và trình độ nhất định. Xét thấy cần tổng hợp kiến thức và trước tác y thư, vừa dùng để dạy học, trao đổi kinh nghiệm thường xuyên với môn sinh, đồng nghiệp vừa có ý định lưu truyền cho đời sau.
     Như vậy, toàn bộ tri thức về Y đức, Y thuật và Y lý trọn đời đã được gửi gắm trong bộ y thư “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”.


3. Thượng Kinh Ký sự
                                                           
     Thượng Kinh Ký Sự (phần cuối Bộ “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”).
     Đây là một thiên phóng sự cả về thơ và văn, viết về những điều mắt thấy tai nghe một cách giản dị, trung thực có giá trị như một sử liệu.
 Ký sự thuật lại việc Lãn Ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Chúa Trịnh với bao cảnh éo le đan xen.
      Trong con mắt nữ văn sĩ Pháp, Yveline Féray, Lãn Ông hiện thân như một vị phi anh hùng hay anh hùng thầm lặng. Vị y sư chao đảo bởi cuộc chiến đấu thầm lặng đầy hiểm nguy để giành lại sự sống trong cái chết. Câu chuyện xoay quanh chủ đề, sự đối đầu giữa quyền lực và nghề y, thông qua hình tượng vị danh y bị làm con tin cho hai phe nhóm đối địch là bà Chánh Cung và Ấu Chúa Trịnh Cán. Khẳng định con người kiêm ái, bản lĩnh và khôn khéo trước những cám dỗ danh vọng.
     Nhà nghiên cứu Phan Quý Bích từng nhận định:

”Bà Yveline Féray có con mắt xanh tinh tường và độc đáo khi nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong suốt mười năm, đã phát hiện hai nhân vật điển hình trên hai lĩnh vực chính trị và văn hóa. Đó là Danh Thần Nguyễn Trãi, về chính trị và Đại Danh Y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, về văn hóa”.

     Vinh danh hai nhân vật điển hình của Việt Nam, nữ văn sĩ người Pháp đã cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết lịch sử, về Nguyễn Trãi cuốn “Vạn Xuân”, dịch giả Nguyễn Khắc Dương, NXB Văn Học 1997, về Lê Hữu Trác cuốn “Lãn Ông”, dịch giả Lê Trọng Sâm, NXB Văn Nghệ TP. HCM 2005.

     Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trong bài “Lê Hữu Trác và con đường của một trí thức trong cơn phong ba nửa cuối thế kỷ XVIII”- Tr. 492-526, Tổng tập -Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật, NXB Giáo dục Việt Nam 2013, đánh giá:

    “Thượng Kinh Ký Sự, đóng góp nổi bật của nhà văn Lê Hữu Trác vào văn xuôi tự sự cổ điển Việt Nam. Đây là một cuốn bút ký rất hiếm thấy trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII... cùng với Hoàng Lê nhất thống chí và các tập tùy bút của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án ... những dòng ghi chép chân thực của Lê Hữu Trác đã đem lại cho người đọc một cách nhìn, cách nghĩ và một tình cảm thực sự mới mẻ. Chúng không những gây được một ấn tượng trong lớp đọc giả sĩ phu bấy giờ mà còn ảnh hưởng đến khí sắc văn xuôi chữ Hán giai đoạn sau”.

    Lần lượt khảo sát những điểm nhấn của Lãn Ông trong hành trình lên Kinh.
     Điểm nhấn quyền lực và nghề y là một phát hiện độc đáo xuyên suốt. Đây là khám phá lột tả được trạng thái tâm lý-phản tâm lý hay nghịch lý đấu tranh nội tâm của nhân vật chính.
     Ấn tượng ban đầu đối với chàng thư sinh Thuần Chẩn là bối cảnh rối ren, bất ổn của đất nước, đã được thể hiện trong phần cuối của bài thi Hương. Thấy rõ quan điểm công minh, chính trực và tôn trọng sự thật của chàng thư sinh. Tiếp đến là sự đoạn tuyệt với hiện thực bế tắc không lối thoát đã biến cái chí lớn thành hư không và người tráng sĩ thành cuồng ngông.
     Và con đường đến với chân lý đích thực là trở về. Đây là tác động khách quan, mà toàn dân cùng chung số phận. Còn tác động trực tiếp chính là giữa quyền lực (bộ máy chính quyền) với thầy thuốc và nghề y (yếu tố văn hóa). Trong tất cả các xã hội thì văn hóa luôn bị lép vế trước quyền lực. Một mặt, văn hóa là nguồn sống và nguồn sáng, là trường tồn, là vạn đại, nhưng luôn bị điều chỉnh bởi quyền lực. Mặt khác, quyền lực (chính quyền) là yếu tố nhất thời, nhưng lại được thực thi bởi sức mạnh của mệnh lệnh, hay cưỡng chế hành chính, thậm chí cả vũ lực.
     Mức độ cao thấp của văn hóa luôn tỷ lệ nghịch với độ lớn của bộ máy nhà nước. Ở những nước dân trí càng cao thì nhà nước càng nhỏ, ngược lại, ở những nước dân trí càng thấp thì nhà nước càng to.
     Hãy xem phản ứng của nghề y và quyền lực, khi Lãn Ông nhận được chiếu chỉ của Triều đình ban lệnh và sai lính trấn hộ vệ đưa Lãn Ông ngay lên Kinh đợi mệnh. Ngài nghe thấy tin mà sửng sốt:

    “Tôi thấy sự việc quan trọng như thế, lo sợ vô cùng, người cứ như ngớ ngẩn mất nửa giờ”. Rồi tiếp: “Tôi chỉ ân hận, sao mình đã đi ở ẩn mà chưa ở ẩn cho kín?” Và chấp nhận: “Cây kia có hoa nên bị người ta hái, người ta có cái hư danh nên phải lụy về chữ danh. Ví bằng trốn cái danh đi có tốt hơn không?”(Thượng Kinh ký sự).

     Còn việc gấp của Triều đình là Đông Vương cung Thế Tử đang lâm bệnh nặng cần chữa trị khẩn cấp. Đó là việc đại sự không thể từ chối.
     Tiếp đến là những mối quan hệ đan xen đầy rẫy sự phức tạp, thấp hèn, kể cả bất nhân trong phủ Chúa. Đến các tính cách hoạn quan như đố kỵ, bon chen, nói xấu sau lưng, đồn nhảm, tranh công và vô vàn các cạm bẫy khác. Lãn Ông phải sống và làm việc trong hoàn cảnh bất lợi, đơn phương độc mã trước áp lực của những hoài nghi, ghen tức. Nhưng với bản lĩnh, nghị lực và tài trí, Lãn Ông đã thuyết phục và chiếm được lòng tin của Thánh Thượng và Quan Chánh Đường. Bài thuốc của Lãn Ông được chấp nhận, sau được trọng thưởng mười quan tiền và mũ áo. Trong lời tâu với Thánh Thượng, Quan Chánh Đường nói về Lãn Ông:

     “Ông ta là người quê mùa, ăn nói vụng về, nhưng về hiểu ý lý sâu sắc thì thầy thuốc trong thiên hạ không ai hơn được.” Vừa nghe Chánh Đường nói xong, Lãn Ông phản ứng ngay: “Tôi nghe Quan Chánh Đường nói xong lạnh cả tóc gáy, chuyến này thì mắc vào vòng, trời cứu cũng không thoát được”.  (Thượng Kinh ký sự).

      Mâu thuẫn tâm lý xuất hiện trở thành nan đề, hai nỗi lo chồng chất lên Lãn Ông, thứ nhất, làm sao chữa khỏi bệnh cho Chúa, thứ hai, chữa bệnh được rồi thì sẽ phải chôn chân nơi Kinh thành.
      Trạng thái ”được” hay “bị” triệu lên Kinh cũng như vô vàn các trạng thái khác với tính chất như nhau. Độc lập, tự do luôn luôn bị đe dọa và miễn cưỡng tuân thủ dưới áp lực của mệnh lệnh hành chính (tất nhiên là đối với Lãn Ông).    Trước một thế lực áp đảo, thân phận bình dân chỉ còn cách vâng lệnh để an thân, theo đó tùy cơ ứng biến dù đã mắc vào vòng danh lợi nhưng cũng không để danh lợi mê hoặc. Cuối cùng cũng khôn khéo thoát thân.

     Điểm nhấn tiếp theo, Người anh hùng thầm lặng.
     Chúng tôi cho là một đánh giá xác đáng với con mắt tinh tường của nữ văn sĩ Féray về nhân vật văn hóa Việt Nam.
     Lãn Ông hiện thân là Người anh hùng Văn Hóa Việt Nam hay là Danh Nhân Văn Hóa, con người có cống hiến lớn lao cho đất nước và được vinh danh tên tuổi, được viết sách, ghi sử, vẽ tranh, tạc tượng. Âu cũng là một tri ân tế vi với Ngài, trên bức hoành phi trong ngôi chùa Tượng Sơn ở Hương Sơn, lưu lại dòng chữ : “Vô Thượng Y Vương - 王者至尊”.
     Người anh hùng, trong văn hóa Việt Nam, nhờ nắm vững  TAM CƯƠNG:
Nhân, Trí, Dũng. Nhân là Tình thuộc nguyên lý Mẹ, Trí là Lý thuộc nguyên lý Cha, Dũng hay Hùng Dũng là hệ quả của Tình Lý. Anh hùng mang trọn đức tính của các đứa con mang dòng máu Việt là Trai Tài, Gái Đảm, con cái của Mẹ Tiên Cha Rồng của Nhân và Trí.
     Trai tài gái Đảm là kết quả của lao động sáng tạo bằng Nhân và Trí, cũng là nguồn Sống  (Nhân) và nguồn Sáng (Trí) của nền văn hóa.
     Nhớ lại hành động quyết đoán tự chủ của chàng thư sinh Thuần Chẩn khi cởi giáp bẻ tên, trở về với núi rừng, muông thú nơi thâm sâu cùng cốc để bắt đầu bước ngoặt mới của cuộc đời. Đó là một hành động đầy bản lĩnh và cố gắng hướng thiện một cách thầm lặng và an nhiên. Chàng trai Thuần Chẩn dấn thân vào y nghiệp và quyết tâm cắm cờ hồng trong ngành y.

     Những bài học về nghề thuốc đầu tiên khi chàng trai trẻ họ Lê đến nhờ thầy Trần Độc chữa bệnh cho mình, rồi nghe thầy dặn cách dùng thuốc, hỏi thầy cách chữa. Thấy nghề chữa bệnh cũng thu hút sự chú ý, rồi chăm chú nghe thầy giảng giải y lý, đọc sách Cẩm Nang Phùng Thị, những chỗ sâu sắc về dịch lý âm dương trong sách thuốc đều thấu suốt cả. Thầy Trần thấy có năng khiếu bèn muốn dốc hết cả kiến thức của thầy cho cậu tân học trò. Thời gian âm thầm, lặng lẽ trôi và :

     “… cứ miệt mài, không tiếc công phu, bén mùi y học, càng thấy say sưa mới bắt tay chữa bệnh, trước chữa người nhà, sau chữa người ngoài, đã được nhiều phen kinh nghiệm. Trong một năm chữa khỏi hàng ngàn bệnh, không lấy gì làm khó, cũng có một vài bệnh khó rồi cũng phải tìm hết ra ngoài khuôn pháp rồi cũng chữa nổi. Nhân đó chép thành nghiệm án, không biết rằng tự sức mình suy nghĩ được mà thành công chăng? Tôi vẫn không dám đem ý kiến của mình mà khoe với ai, chỉ cốt là ghi lại làm một tập nghiệm cho mình và cho nhà mình đó thôi.” (Tiểu dẫn “Y dương án”).

     Tiếng vang khắp vùng Châu Hoan, khách đến thăm nhà nườm nượp, bệnh nhân cảm tạ, người bình dân thì vài đấu gạo, nhà có của hay những quan chức thì lễ tạ hậu hĩnh. Riêng có trường hợp quan Thự Trấn Hoàng Đình Bảo mắc bệnh nặng, được Lãn Ông chữa chạy tận tình, sau đãi Lãn Ông vào bậc khách quý, ngồi kề sát chiếu, thết đãi rất trọng hậu. Và cũng chính vì cái chữ tín chữa bệnh này mà sau đó “được” ông ta tâu với Chúa Trịnh xuống chỉ, triệu Lãn Ông lên Kinh chữa bệnh.
     Nhớ lại năm Bính Tý 1756 sau mười ba năm kể từ ngày đi thi Hương ở Sơn Nam Hạ, Lãn Ông có dịp gặp lại người em rể họ là Diên Hà Bảng Nhãn Lê Quý Đôn ở Kinh Đô, một thành danh nơi quan trường, sau trở thành quan Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ, một nhà Bách khoa toàn thư lớn của Đại Việt, một ở chốn núi rừng thâm sâu cùng cốc, nhưng âm thầm nổi danh như một y sư, tiếng vang vọng tới Cửu trùng. Hai quan điểm sống trái ngược nhưng vẫn đạt đỉnh thành tựu trong cuộc đời.
Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ Tiên Sinh than vãn khi chia tay Lãn Ông:

     “Giữa thời buổi người ta xô chen giẫm đạp lên nhau mà chết chốn trường thi, thế mà bác Thuần Chẩn một người tài cao, học rộng lại không màng gì với công danh, phú quý để trở thành lão già lười đất Hải Thượng, tinh thông y lý, chuyên tâm trị bệnh cứu người thì quả là một sự lạ lùng!” (15)

     Chính thái độ khâm phục này là một nhận định xác đáng về một con người anh hùng và vô cùng thầm lặng đáng tôn kính này.
Anh hùng bởi một tấm lòng cao cả, một bản lĩnh phi thường, một sức lao động miệt mài bằng Nhân và Trí để cống hiến trọn vẹn cho đời.
     Thầm lặng bởi tự nó không bon chen, không tham chính, không ở nơi kinh đô phố thị, mà âm thầm lặng lẽ, tự tranh đấu với chính mình, ở nơi thâm sâu cùng cốc, hiu hắt quê mùa.
     Vị y sư đã thành tựu từ cái sự giản dị, tầm thường để trở thành phi thường.

Lời kết

     Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hội tụ đầy đủ tinh hoa của Trời, Đất, Người và kết tinh thành Niềm tin Chân lý vượt không gian và thời gian.
     Niềm tin đó là nền tảng của Dịch lý cùng với các thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Văn Hóa Thái hòa Việt Nho.
     Với tư tưởng khai sáng bằng tri thức khoa học, Ngài chỉ rõ rằng, y đạo là bể kiến thức vô bờ, đầy chông gai, nhọc nhằn và bí ẩn, muốn vượt qua nó thì không gì ngoài nỗ lực của cá nhân và cái chìa khóa duy nhất là sự hiểu biết:

     “… chỉ lo cái hiểu biết nông hay sâu mà thôi “. (Y huấn cách ngôn)

     Cho nên, cái sở học, tức là cái vốn tri thức khoa học đích thực của mỗi người được Lãn Ông suy tôn lên đỉnh cao của trí tuệ như là bảo vật quý giá. Đó chính là tinh thần “Cách vật trí tri” của Nho gia.
Trong lời Tiểu dẫn Đạo Lưu Dư Vận, Ngài viết:

“Tôi thà đắc tội với các bậc tiền bối, chứ quyết không phụ cái sở học của tôi”.
    
     Chúng ta liên tưởng đến những tấm gương đấu tranh và bảo vệ chân lý khoa học (Thuyết Nhật Tâm) đến cùng của các tiền nhân Copernic, Bruno, Galileo Galilei, sẵn sàng đổi mạng sống, dũng cảm, hiên ngang trên giàn hỏa thiêu vì một chân lý cao cả :
“Dù sao Trái Đất vẫn quay”.

     Họ, những con người vì lý tưởng cao đẹp, dù ở chân trời nào, với niềm tin chân lý, lòng quả cảm và sự cống hiến cho nhân loại đều trở thành bất diệt.

     Chúng ta vừa kết thúc chuyến thăm Bảo tàng Văn Hóa Lãn Ông, với những cảm nhận khác nhau về quá khứ của một con người, một sự nghiệp và một thời đại. Để kết thúc bài viết của mình, tôi xin trân trọng gửi lại một câu kết từ kho tàng Minh Triết Việt mà nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray đã dùng làm câu kết trong cảm nhận của mình về Lãn Ông:

“Nhân bất tận Tình”.


Kính cẩn!

Hà Nội Giờ chính Ngọ, ngày Ngọc Đường Hoàng Đạo (Tân Tỵ), tháng Kỷ Mùi, năm Quý Tỵ , tức 14.07.2013.

Phúc Khánh, Cháu Đời thứ 19 từ Cụ Thủy Tổ Lê Phúc Tiên là Giám sinh Quốc Tử giám thời Hồng Đức (1460-1497).
Cháu Chín đời của Lãn Ông, tự đề.



Chú thích
(1)   Kim Định và các tác giả Văn Hóa Việt Nam trên vietnamvanhien.net
(2)   GS. Nguyễn Huệ Chi, Bài “Lê Hữu Trác và con đường của một trí thức trong cơn phong ba nửa cuối thế kỷ XVIII” trong Tổng tập “Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật”, Nguyễn Huệ Chi. NXB Giáo dục Việt Nam, 2013.
(3)        Lê Gia Vinh, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, 1986. Tự xuất bản 1997, Hà Nội.
(4)   Xem (3)
(5)   Các tác giả thường trích dẫn hai vế đầu, vế thứ ba “giữa hiểu nhân tình”, người viết bổ sung cho phù hợp với tam tài Thiên, Địa, Nhân. Mong được chỉ giáo.
(6)   Việt Nhân, Văn Hóa Thái Hòa Việt tộc  3 tập: Văn Hóa Đông Nam,         Văn Hiến Việt Nam và Đạo lý xử thế, phát hành tại Hoa Kỳ – vietnamvanhien.net
(7)   , (8) & (9) Xem  (6).
(10) Về 3 vị Thánh Đế. Các cụ ngày xưa cũng bị nhầm do sử Tàu viết sai. Ba vị ở đây chính là Tam Hoàng hay Tam Vương thuộc Hoàng Kỷ trong cổ sử Tàu ghi lại thời Đại Chủng Viêm Việt, lần lượt là Thần Trời – Toại Nhân cho Lửa, Thần  Đất – Phục Hy cho Kinh Diệc/Dịch, Thần Nhân – Thần Nông dạy trồng lúa và nghề y. Còn Hoàng Đế chính là Hiên Viên thủ lĩnh du mục ở tây bắc Trung Quốc (thuộc Đế Kỷ, sau thời Tam Hoàng hơn 600 năm), sau khi đánh thắng Đế Lai tức Li/Si Vưu và xưng Hoàng Đế, đứng đầu Ngũ Đế (Đế Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn) theo sử Tàu. Cũng theo những nguồn sử sai lệch khác của Tàu, Hoàng Đế còn được gọi là vua sáng chế ra chữ viết, xe cộ, nghề y…
(11), (12),(13), (14) & X. (2)
(15) X. (3)

Tài liệu tham khảo 
1.     Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, Tập 1,2,3,4. NXB Y học, 2008.
2.     Hải Thượng Lãn Ông, Thượng Kinh Ký Sự.
Biên dịch: Bùi Hạnh Cẩn. NXB Hà Nội 1977.
Biên dịch: Ứng Nhạc Vũ Văn Đình. NXB Văn Học 1993.
3.     Lê Hữu Hành tức Tràng Thành, Gia phả Họ Lê Hữu 1959.
4.     Viện Hán-Nôm, Văn Xá Lê Tộc Thế Phả, A 679.
5.     Lê Hữu Quán, Văn bia họ Lê Hữu, NXB Thế Giới 1994.
6.     Viện Viễn Đông Bác Cổ EFEO ấn hành 1972, Thượng Kinh Ký Sự.      
     Dịch và chú giải: Nguyễn Trần Huân.
7.     Yveline Féray, Lãn Ông (Monsieur le Paresseux), NXB Văn Nghệ TP. HCM 2005, Dịch giả: Lê Trọng Sâm.
8.     Lê Trần Đức, Thân thế và sự nghiệp Hải Thượng Lãn Ông Lê hữu Trác. NXB Y học và Thể dục thể thao, Hà Nội 1970.
9.     GS Pierre Huard & Maurice Durand, Lãn Ông và nền y học Trung – Việt, trong BSEI, tập XXVI, số 3, Sai Gon 1953.
10.  Kim Định và các tác giả Đạo việt An Vi, anviettoancau.net, vietnamvanhien.net, minhtrietviet.net, dunglac.org, laclong.tk với một thư viện đồ sộ về Văn Hóa VN.
11.  Madeleine Colani, giáo sư khảo cổ người Pháp, Viện Viễn Đông Bác Cổ EFEO – Đông Dương, công trình nghiên cứu “Văn Hóa Hòa Bình”,1929.
12. Lê Gia Vinh, Hải Thượng Lãn Ông Lê hữu Trác, 1986. Tự xuất bản 1997 Hà Nội.
13. Nguyễn Khắc Minh, Việt Y Tổ. viethoc.com
14.  Nguyễn Huệ Chi, Văn học cổ Cận Đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật. NXB Giáo dục Việt Nam, 2013.

















015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...