Thứ Hai, 5 tháng 10, 2020

02005 TỨ BẤT TỬ



02005

 TỨ BẤT TỬ

TRIẾT LÝ NHÂN BẢN TÂM LINH CỦA VĂN HÓA VIỆT

 

       Tứ Bất Tử Việt Nam là hình tượng văn hóa nhân bản tâm linh của vũ trụ quần sinh trong lịch sử văn hóa Việt Nam và Thế giới.

       Tứ Bất Tử là biểu hiện lưỡng nhất tính gồm bản thể và hiện tượng. Bản thể là trung tâm, là hạt nhân, là yếu tố sinh, là tượng. Hiện tượng là vòng ngoài, là yếu tố thành, là hình. Cho nên, có thể nói Tứ Bất Tử Việt Nam đã đạt được hai chiều kích văn hóa bản thể và hiện tượng, đạo và đời.

        Bất tử vì nó là bản nguyên, là chân lý tối thượng, là đạo của Vũ Trụ mà nhân loại tôn kính và thờ phụng. Bất tử vì nó là hình ảnh chân thực của những con Dân,  con Trời mang sứ mệnh khai mở, tạo dựng và tỏa sáng càn khôn.

        Tứ Bất Tử thuộc vòng huyền sử như một chân lý, một bản nguyên của ký ức dân tộc mang tính cộng thông nhân loại. Cho nên nó đầy tính thiêng liêng, vi diệu được bảo tồn, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để từ đó con cháu tri ân, tự hào và luôn hướng về cội nguồn Tổ Tiên.

        Tứ Bất Tử là cả Dân Tộc Việt Nam triệu người như một, kiến tạo, bảo vệ và phát triển cùng nhân loại.

        Trước khi đi vào chủ đề Tứ Bất Tử, chúng ta thử quay lại bối cảnh lịch sử văn hóa thời Tiền Sử, cái nôi của hiện tượng Tứ Bất Tử huyền vĩ này.

        Thoạt kỳ thủy thời sơ sử, do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và thời gian đã xóa đi tất cả những vết tích người xưa từ 40.000 năm. Xin trích dẫn một nhận định của Nhà nghiên cứu Tiền sử người Việt như sau:

      “Những năm cuối thế kỷ XX, bùng nổ thông tin gây chấn động: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi 200.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm trước, theo ven biển Ấn Độ Dương, người từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Tại đây thời Đồ Đá xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ hòa huyết với nhau sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình Australoid. Sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư. Người Australoid biến mất khỏi đất này không hiểu do di cư hay đồng hóa?” Nghỉ lại ở đây 20.000 năm để gia tăng nhân số, 50.000  năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước, do khí hậu phía Bắc được cải thiện, người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. 30.000 năm trước, từ Siberia vượt qua eo Bering, chinh phục châu Mỹ…”  Giới khảo cổ học choáng váng. Tuy nhiên, khám phá từ ADN không thể nghi ngờ! Như vậy, thực tế cho thấy, con người đã có mặt tại Việt Nam từ 70.000 năm trước. Nhưng thổ nhưỡng và khí hậu khắc nghiệt đã xóa đi mọi dấu vết của họ, khiến cho 40.000 năm chìm vào đêm tối!” (Tiền sử người Việt. Hà Văn Thùy, NXB Hồng Đức 2020).

       Đây là câu chuyện dài đã được giải mã, trong khuôn khổ của chủ đề Tứ Bất Tử, chúng tôi chỉ giới thiệu bối cảnh lịch sử văn hóa hậu kỳ Cựu Thạch, Tân Thạch trở về sau, khi mà bắt đầu hình thành xã hội người Việt Cổ đầu tiên từ lưu vực sông Hoàng Hà đến Nam sông Dương Tử và trải rộng ra Thái Bình Dương.

        Khoa học Nhân chủng cho biết, chủ nhân của nền văn minh nông nghiệp lúa nước đầu tiên của nhân loại là chủng người Indonesian/ Việt Cổ/Lạc Việt/Lou Yue. Sau đó người Mông Cổ phương Bắc hòa huyết với người Việt Cổ bản địa, sinh ra giống con lai Hoa Hạ, trở thành chủng người Mông Cổ phương Nam.

        Nhân chủng học và Văn Hóa học cũng xác định đây là cuộc Cách mạng Tân Thạch Lần thứ nhất với những đặc trưng: Nông nghiệp trồng lúa & kê, Thuần dưỡng gia súc (chó, lợn, gà), Nuôi tằm tang, dệt vải và Nghề gốm.

        Những cộng đồng Thị tộc đầu tiên là Tam Hoàng, gồm Thiên Thần Phục Hy Thị, Địa Thần Nữ Oa Thị và Nhân Thần Thần Nông Thị.

        Tiếp đến là Ngũ Đế, gồm Hoàng Đế, Đế Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn.

        Tiếp nữa là thời Tam Đại Hạ, Thương/Ân, Chu.

        Từ thời Hoàng Đế Hiên Viên, do máu Du mục nổi trội, sinh ra tham tàn, cường bạo, bành trướng. Người Du mục Hoa Hạ đã lấn át và xua đuổi người Nông nghiệp Lạc Việt về phía Nam. Người Lạc Việt lập kinh đô ở vùng Hồ Động Đình Nam sông Dương tử, xây dựng Vương triều Xích Quỷ Văn Lang, sau Trung Quốc gọi là Lương Chử và tự xưng người Trung Hoa là hậu duệ của người Lou Yue/Lạc Việt. (Nhà Nước Xích Quỷ Văn Lang từ huyền thoại đến hiện thực. Hà Văn Thùy, NXB Hội Nhà Văn, 2017)

        Năm 2698 TCN, những bộ lạc du mục hung hãn trên bờ Bắc Hoàng Hà do họ Hiên Viên cầm đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm giang sơn của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng được ghi lại trong Kinh Thư: “Phạt Tam Miêu, đầy Tam Miêu tam phục, ngũ phục”. “Ngươi phải ghi nhớ, không được để Tam Miêu quấy rối Hoa Hạ!” (Lời vua Nghiêu dạy bề tôi). Đấy là ở thời Nghiêu Thuấn, “thời đại Hoàng Kim”. Từ sau thời Chu, hàng triệu người Tiên Ti, Hung nô vào chiếm đất, mặc sức chém giết… đẩy những đợt sóng người Việt chạy về Nam tìm đường sống. Đó là buổi giao thời, khi người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam - lớp con cháu từ Núi Thái -Trong Nguồn trở về, thay máu đồng bào và đổi mới kỹ năng sống, đưa tộc Việt từ văn minh đồ đá chuyển sang văn minh kim khí của thời đại Phùng Nguyên - Đông Sơn rực rỡ.

        Hùng Vương Sự Tích Ngọc Phả Cổ Truyền có lời rằng:“Vua Kinh Dương Vương vâng ngọc chỉ phụng mệnh Trời về núi Nam Miêu Sơn lập đô ở phía Hoan Châu thuộc Nghệ An xứ”).Và sau cùng là thời kỳ các Vua Hùng kéo dân về Phong Châu, Phú Thọ ngày nay.

        Khoảng ba nghìn đến bảy nghìn năm cách nay là thời kỳ của Văn Minh Trống Đồng là cơ sở nền tảng cho những câu truyện huyền tích về Tứ Bất Tử trong lịch sử văn hóa tâm linh của người Việt. Các Ngài chính là Hồn Thiêng Sông Núi để độ trì cho Dân tộc trong lúc nguy biến suốt dòng Lịch Sử. Tinh thần của các Ngài đã được lưu truyền cho Dân tộc Việt Nam, cho Con Cháu muôn đời về sau. Đó là Bốn Vị:

1.     Tản Viên Sơn Thánh

2.     Phù Đổng Thiên Vương

3.     Chử Đồng Tử - Tiên Dung

4.     Chúa Mẫu Thượng Ngàn Liễu Hạnh

 

I. TẢN VIÊN SƠN THÁNH

 


        Tản Viên Sơn Thánh “hạo khí anh linh của trời đất”, một bản nguyên, một chân lý vĩnh hằng của Việt Tộc. Tản Viên Sơn Thánh là hình tượng của nhân duyên phù hợp với  luật nhân quả thiên địa nhân hợp nhất hay Đại Đạo âm dương hòa. Đó cũng là món quà mà Tạo Hóa ban tặng về nghị lực sống, trí tuệ và bản lĩnh của người Việt.

 

HUYỀN THOẠI SÁCH ƯỚC & GẬY THẦN

 

        “Sách Ước là sách huyền diệu có sức màu ban cho người có quyền ước gì được nấy. Tìm về nguồn gốc chúng, ta chỉ gặp thấy có nói đến sách Ước trong câu truyện Thần núi Tản Viên: “Thần xưa kia là một đứa con bị bỏ rơi giữa rừng được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là Kỳ Mạng. Sở dĩ Thần có tên này là vì trước khi gặp cha nuôi đứa bé mới lọt lòng đã được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ. Kỳ Mạng chóng lớn khôn, theo nghề cha nuôi ngày ngày vác rìu vào rừng đốn củi. Một hôm Kỳ Mạng đốn một cây đại thụ. Cây to lớn quá, chặt từ sáng tới chiều mà vẫn chưa hạ nổi. Bỏ dở ra về, đến sáng hôm sau trở vào rừng, Kỳ Mạng hết sức ngạc nhiên thấy những vết chặt đã dính liền lại khắp thân cây. Kỳ Mạng lại xách rìu chặt nữa, suốt ngày hết sức không xong, đến ngày thứ hai trở lại cũng thấy cây vẫn nguyên vẹn như chưa hề đụng tới. Không nản chí, Kỳ Mạng lại ra công chặt nữa, quyết hạ cho kỳ được, rồi đến tối ở lại nấp gần cây rình xem sự thế. Vào khoảng nửa đêm, Kỳ Mạng thấy một bà lão hiện ra, tay cầm gậy chỉ vào cây, đi một vòng quanh cây, tự nhiên những vết chặt lại liền như cũ, Kỳ Mạng nhảy ra khỏi chỗ nấp, tức giận hỏi bà lão sao lại phá công việc làm ăn của mình. Bà lão nói: “Ta là Thần Thái Bạch, ta không muốn cho cây này bị chặt, vì đây là chỗ nghỉ của ta“.  Không chặt cây thì lấy gì mà nuôi cha? Thái Bạch đưa cho Kỳ mạng  cái gậy rồi biến mất. Được chiếc gậy Thần, đời sống của cha con Kỳ Mạng từ đấy có phần dễ chịu lắm, và chàng mang đi cứu giúp những người bệnh tật ốm đau. Một hôm Kỳ Mạng đi chơi gặp xác một con rắn nước bị trẻ chăn trâu đập chết vứt ở bờ sông, mới dùng gậy Thần chỉ cho con rắn sống lại. Vài ngày sau có một người lại tới tự xưng là Tiểu Long Hầu, đem nhiều châu báu tạ ơn Kỳ Mạng đã cứu sống. Thần Tiểu Long lại mời Kỳ Mạng xuống chơi dưới thủy phủ. Kỳ Mạng nhận lời theo Long Quân rẽ nước xuống biển ở lại ba hôm, Tiểu Long bày yến tiệc tiếp đãi nồng hậu và dẫn chàng đi thăm khắp thủy giới.

        Khi về Kỳ Mạng lại được Long Quân biếu một cuốn sách Ước, nhờ sách mà cầu gì được nấy. Kỳ Mạng sung sướng đem sách về trần.

Cuốn sách Ước có 3 trang trống trơn bằng da cá, ngoài bọc vỏ rùa, 3 trang là: Kim, Mộc, Hỏa. . ., thiếu trang Thủy mà Long Quân đã giữ lại. Kỳ Mạng mở sách thử linh nghiệm, đặt tay vào trang Hỏa và khấn khứa, ngay lập tức sấm sét, vân vũ nổi lên dày đặc, rung chuyển bầu trời. Kỳ Mạng mỉm cười đắc ý, đặt tay tiếp vào trang Mộc, ước ao thấy một rừng cây đi. Tức thì rừng cây hiện lên như một đạo quân. Kỳ Mạng gấp sách lại, thấy mình từ đấy uy quyền, sức mạnh không còn ai sánh kịp. Rồi chàng lang thang đó đây, giúp đời. Cuối cùng chán cảnh trần tục, Kỳ Mạng lên núi Tản Viên ngụ luôn tại đấy. Với cuốn sách Ước, chàng dựng lên những khu nhà cửa, dân cư sầm uất giữa chốn rừng hoang vu. Từ đó thiên hạ đồn rằng núi Tản Viên do một vị thần có pháp thuật thần thông biến hóa cai quản“.  (Văn Học, Hoàng Trọng Miên )

Giải nghĩa

        Câu truyện huyền sử truyền lại cho hậu thế một thông điệp mang tính nền tảng của Kinh Dịch, còn gọi là Thiên Thư mà dịch lý cũng là thiên lý với cuốn sách Vô ngôn và bộ Huyền số của Lạc Thư, thông qua hai bảo vật Sách Ước & Gậy Thần. 

        Sách Ước vô ngôn, vô tự nguyên thủy là những ký hiệu vạch đứt  (- -) âm, vạch liền (–) dương, được xắp xếp theo biến dịch càn khôn thành các hào, quẻ. Sau đó mỗi quẻ được giả nghĩa bằng hệ từ hay soán/thoán từ của Chu Văn Vương, Khổng Tử, Chu Hy, Trình Di, Ngô Tất Tố… mà thành Kinh Dịch thành văn như ngày nay.

       Gậy Thần chín đốt, hai đầu sinh tử/âm dương chính là bộ Huyền số của Việt tộc trong Lạc Thư, đặt theo hai trục tung hoành hay thập tự nhai, lấy tâm điểm là số 5:

1

2

3

4

                                                       1  2  3  4  5  6  7  8  9

6

7

8

9

       Người biết quyền biến dùng Gậy Thần, nắm vào điểm giữa gậy số 5 rồi xoay thì sinh tử biến hóa, mọi điều mong ước thành sự thực, đầu sinh làm điều thiện, phục sinh, chí khí, đầu tử để trừng trị tà ác, giải oan, tiêu diệt kẻ thù.

        Sách Việt sử lược bảo Hùng vương biết dùng ảo thuật thì có nghĩa là biết ứng dụng  nền Minh triết Lạc Thư: đem đạo ( Tròn ) Tản vào đời sống ( Vuông ) Viên đó là Tản Viên, tức Tròn Vuông xoắn xuýt, Trời Đất giao hòa.

       Gậy Thần đi với Mẹ với nông nghiệp, nên gây ra được nhiều ơn ích thiết thực, còn Sách Ước là do Bố, Lạc Long quân tuy cũng có thần thông nhưng mang nhiều tính vu nghiễn như khi Kỳ Mạng niệm chú cho trời mưa, cho rừng cây xuất hiện…, đó là kiểu nói bóng về khả năng biến hoá của Kinh Dịch, nhưng về sau vì bị hiểu theo lối vu nghiễn, nên không ơn ích cho đời sống như Gậy Thần. Gậy Thần biểu thị Minh Triết nông nghiệp, nên mỗi lần chặt cây là biểu thị chối bỏ nền Minh Triết đó.

1. Ý nghĩa Gậy Thần

        Vậy Gậy Thần không chi khác hơn là nền Minh Triết nông nghiệp.  Khi người nào đạt độ Minh Triết đó thì không cần đến tôn giáo vu nghiễn nữa, còn khi chỉ có triết học duy niệm như trong văn minh Cha thì không đủ thỏa mãn Tâm linh nên cần đến vu nghiễn, như phần nào đã thấy xẩy ra trong Hán Nho có pha nhiều chất tai dị. Đã là Minh Triết thì nó biểu lộ ra trong nét Nhất quán tức như sợi dây xỏ xuyên qua hai bờ Âm Dương, mà không Duy bên nào. Nói bóng là gậy Thần. Gậy là để xỏ qua, Thần là khắp hết, tức đem đạo (tròn) tản ra mọi việc (vuông). Vậy trong nền văn hoá Việt Nam ta thấy cái gì cũng Lưỡng nhất tính kể từ vật tổ trở đi là Tiên Rồng cho đến thể chế làng nước, mẹ cha, cách tính tuổi, cách đặt tên… và vì thế tiếng nước ta rất nhiều danh từ đi đôi: đất trời, chiếu chăn, nước non, ăn uống, mênh mông, kỳ diệu. Tưởng không ngôn ngữ nào trên thế giới diễn đạt nét gấp đôi rõ như vậy, tiếng ngoài thăng, tiếng trong giáng. Lối nói lại đặt chữ Kỳ tức lấy mình làm trung tâm: Ta nói xe chạy ngoài đường là quy chiếu vào mình tức con đường ở ngoài mình.  Đó là hệ quả Tam Tài, lấy con người làm trung tâm “Trời che Đất chở ta thong thả“ và do đó hiện thực được sứ mạng của mình (Kỳ Mạng), tức là của con người đại ngã Tâm Linh mà các nền văn minh khác chưa đâu thực hiện nổi. ( xin  xem Nhân Chủ , Kim Định)


2.     Ý nghĩa Nhân sinh

        Thân phận cuộc đời Kỳ Mạng là hình tượng thời kỳ sơ khai của loài người. Sinh ra chưa rõ gốc gác, được nhặt về nuôi, mà lão tiều phu chính là bàn tay Tạo Hóa. Kỳ Mạng cầm rìu đốn củi là hoạt động sinh tồn trong giới tự nhiên. Cái rìu biểu hiện cho thời hái lượm săn bắt, khai hoang để mưu sinh của người Việt Cổ. Chữ Việt được ghi với biểu tượng hình cái qua (rừu đá) gọi là bộ chữ Qua , có gốc từ chữ Việt  trong Giáp cốt văn thời nhà Thương (xem “Phục hồi chữ Việt cổ” của Lê Văn Ẩn). Tự hào về sáng tạo này, tổ tiên ta lấy tên Việt làm biểu trưng của mình là người chủ của Cây Việt, còn gọi là Phủ Việt. Từ đó, tổ tiên ta được gọi là người Việt. Việt – người cầm rìu có thể xuất hiện trước 15.000 năm cách nay. Người cầm rìu sau trở thành người trồng lúa, chữ viết chuyển sang bộ Mễ cây lúa. Đến thời kỳ người Việt (Mễ) bị nhóm người Du mục phương Bắc xua đuổi xuống phía Nam, người Việt gắn với tên bộ Tẩu/chạy, vượt thành Việt  .

Kỳ Mạng chặt cây nhiều lần, biểu hiện của sức lao động cần cù, vất vả và phụ thuộc vào thiên nhiên. Sau thời gian dài, thành quả mới đạt và được Thần Thái Bạch cho Gậy Thần. Kỳ Mạng xoay chuyển Gậy Thần làm nên nhà cửa, dân cư sầm uất, cuộc sống ấm no. Đó chính là sự phát triển thịnh vượng của nền Văn Minh Nông Nghiệp, mở đầu cuộc Cách mạng Tân Thạch Lần thứ nhất của Nhân Loại.       

Cây đàn Kinh

                      Tinh thần HÒA của nền Văn Hóa

 

        Nếu hỏi trên hoàn cầu có cây đàn nào giàu chất triết nhất thì phải thưa là cây đàn bầu hay đôc huyền.  Huyền có nghĩa là dây cũng có nghĩa là huyền bí, huyền nhiệm, nhiệm màu. Có rất nhiều lý do để gọi như vậy:

        Trước hết chỉ có một dây mà làm nẩy ra đủ mọi cung trong âm giai.

        Thứ đến lạ lùng hơn nữa là cung nào cũng là cung Hòa.

Các đàn khác chỉ có tiếng đơn (Soni), một hai cung là hòa (harmonique): một mình đàn Kinh thì cung nào cũng là hòa. Nói khác đi nó là âm thanh thứ ba phát sinh ra bởi “Tiếng Sống“ và “Tiếng Chết“. Khi đánh thì dùng cái nạy gảy vào dây, đó là “Tiếng Sống“, nhưng đồng thời cạnh bàn tay lại đè xuống dây, đó là “Tiếng Chết“, cả hai tiếng phát ra một trật làm nên tiếng thứ ba “không Sống, không Chết“ mà là “Tiếng Hòa“.

        Thứ ba đây không phải là hòa thường mà là hoà cùng cực ở chỗ không tìm ra được kẽ hở, như trong các đàn khác, ở dương cầm thí dụ tự Do đến Re là một quảng cách có thể chia ra 9 hoặc 27 coma, nên nếu không kép cung vào để làm nên một âm thanh hòa thí dụ Do Mi Sol  thì vẫn còn quảng cách giữa Do - Mi và Mi - Sol. Đàng này ở đàn huyền dù một coma cũng không thể có, vì tự đó lướt êm sang Re.

        Thứ bốn nhờ cung nào cũng là âm hòa nên có thể diễn tả cả một bản nhạc toàn bằng âm hòa trọn vẹn. Đức tính hòa hợp là tính chất thâm sâu của triết lý Việt Nho có thể hàm ngụ trong những huyền thoại về quả bầu trăm hột hay cái bọc trăm trứng Âu Cơ. Đó là tính chất Tổng Hợp hay là Cơ cấu. Nhớ lại Cơ Cấu là Tổng Hợp. Càng có lý do nghĩ như vậy nên đàn bầu có nơi gọi là đàn Kinh, vì Kinh có nghĩa là sợi dây xâu tất cả yếu tố lẻ tẻ lại làm thành một nét nhất quán hay là mạch lạc nội tại, mà đó là dấu hiệu của Minh triết.

        Cái bọc Âu Cơ cũng là nền Minh triết tổng hợp và được biểu lộ ra bằng những điển chương đầy chất tổng hợp. Vì thế mà đàn bầu quả là một trong những điển chương của nền MINH TRIẾT VIỆT NHO nằm trong sự hoà hợp giữa Âm và Dương: Đạo không phải nhất Âm, Đạo cũng không phải là nhất Dương. Nhưng là cả Âm lẫn Dương hòa hợp: Nhất Âm nhất Dương vị chi Đạo.

Tiếng Đàn chính cũng là tiếng Đạo vậy.

        Và như thế còn một điểm cuối cùng cần được nhấn mạnh, đó là vai trò quan yếu của con người: mọi yếu tố khác như bị xoá nhòa đi để cho vai trò Người nổi bật. Vì rằng hay hay dở là ở nơi Người. Với các đàn khác thì Người không biết động tới ít ra cũng làm phát sinh được âm thanh chẳng hạn trên piano người nào cũng có thể kéo ra một âm giai. Còn với đàn Kinh mà không biết thì chẳng kéo ra được gì ngoài mấy tiếng phèng phèng vô duyên. Trái lại nếu giỏi thì làm nảy sinh ra những tiếng tuyệt vời u linh man mác.  Vì thế có thể nói đàn bầu biểu lộ linh hồn người gảy hơn bất cứ cây đàn nào khác, nên có thể nói nó là cây đàn người hơn hết, cũng như biểu lộ nền triết lý nhân bản Tâm linh  là một triết lý Người hơn bất cứ nền triết lý nào trên thế giới.  Vậy mà cây đàn này lại là của Việt Nam, vì thế ta có thể coi là một di sản nhiệm màu và mong mỏi cho nó vẫn âm vang mãi mãi dưới bầu trời của Việt tộc. Và đấy là sứ mạng của Văn Triết, của Văn hoá Việt Nam.  

        Hiện nay nền văn hoá này đang như con thuyền không lái xoay quanh tứ phía đấy hiểm nguy. Nếu các nhà làm văn hoá biết dùng triết Việt làm kim chỉ Nam thì rồi nó sẽ trở nên cây đàn bầu kinh nghiệm: quy tụ tất cả vào thống nhất.

Kinh Đức Bỉnh Triết là vậy.

 ( Kim Định )


02005b THÁNH GIÓNG

 


02005b

II. TRUYỆN THÁNH GIÓNG hay PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

TINH THẦN BẢO QUỐC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 


        Câu chuyện về Phù Đổng Thiên vương trong Lĩnh Nam chích quái được hợp nhất với Sóc Thiên vương của Việt điện u linh tập.

        Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà Ân (1766 TCN - 1122 TCN) mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: "Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp!" Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: "Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp". Cụ già ngồi im một lúc, rút thẻ ra bồi, bảo vua rằng: "Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy".

Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói dỡn rằng: "Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm". Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: "Mẹ gọi sứ giả tới đây". Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: "Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?".

Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: "Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?"

Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: "Ta không lo nữa".

Quần thần tâu: "Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?" Vua nổi giận nói: "Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón".

Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng: "Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo". Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn 10 thước, ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: "Ta là thiên tướng đây!" rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy Thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. Ân vương bị chết ở trong trận.

Đi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, Thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà Ân đời đời, 644 năm không dám ra quân.

Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ.

Có bài thơ rằng :

Vệ Linh năm tháng đám mây nhàn,

Muôn tía ngàn hồng chói thế gian,

Ngựa sắt ở trời, danh ở sử,

Uy linh lừng lẫy khắp giang san.

 

( Lĩnh Nam chích quái: Trần Thế Pháp, bản dịch của Lê Hữu Mục, trang 55 – 57 )

 

Phù Đổng Thiên Vương

 

Sáu đời Hùng vận vừa suy

Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài

Làng Phù Đổng có một người

Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ

Những ngờ oan trái bao giờ

Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân ( 1 )

Nghe Vua cầu tướng ra quân

Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang ( 2 )

Lời thưa mẹ : “ Dạ cần vương ( 3 )

Lấy trung làm hiếu , mọi đường phân minh

Sứ về tâu với triều đình

Gươm vàng ngựa sắt đề binh tiến vào ”

Trận mây theo ngọn cờ đào

Ra uy sấm sét nửa chiều giặc tan

Áo nhung cởi lại Linh San ( 4 )

Thoắt đề thoát nợ trần hoàn lên tiên

Miếu đình còn dấu cố viên ( 5 ) 

( Đại Nam quốc sử diễn ca )

          Chú thích

( 1 ) Gió mây : Dịp tốt để thi thố tài đức

( 2 ) Khảng khái .

( 3 ) Đánh giặc giúp vua .

( 4 ) Núi Sóc Sơn , còn có tên là Vệ Linh Sơn , thuộc tỉnh Phúc Yên.

( 5 ) Vườn cũ : tức là làng Phù Đổng , tỉnh Bắc Ninh

 

          Kinh Phù Đổng

       “Vào thời vua Hùng, có giặc Ân xâm lấn nước ta. Vua Hùng làm đủ cách nhưng vẫn không ngăn được giặc. Nhà vua liền lập đàn cầu Tổ về giúp. Trong một cơn mưa to gió lớn, bổng có một cụ già mặc áo đỏ, hình dung cổ quái, đến đùa dỡn với đám trẻ con ở ngả ba đường.

Dầu thấy lạ vua Hùng cũng đến xin Cụ chỉ cách để cứu nước. Cụ cười bảo: Nhà vua hãy sai sứ đi khắp nơi mà tìm. Theo lời Tổ dạy, vua Hùng liền sai người chia nhau đi khắp nơi để loan tin Tổ về và tìm người cứu nước. Đang khi đó, tại làng Phù Đổng có một em bé đã 3 tuổi mà không biết đi đứng nói cười gì cả. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin. Cậu liền bật nói. Cậu xin sứ cho cậu một con ngựa sắt, một cái roi sắt để cậu phá giặc. Từ đó láng giềng đem gạo vải tới giúp cậu ăn mặc, và cậu lớn như thổi.  Khi sứ vua đem ngựa và roi sắt tới, cậu bé Phù Đổng vươn vai thành người cao lớn. Khi cậu nhảy lên ngựa sắt, ngựa liền cử động và phun lửa. Với ngựa lửa roi sắt, cậu đánh giặc một trận tơi bời. Khi roi sắt gãy, cậu nhổ tre mà đánh. Ngựa cũng phun lửa cháy mất mấy làng. Giặc tan, cậu bỏ gốc tre lại, và cưỡi ngựa lên núi mà về trời. Cả một gốc tre bỏ lại sau hoá thành tre lá ngà. Vua Hùng phong cậu là Phù Đổng Thiên vương. “   

( Nam Thiên : Kinh Việt, Hoa Tiên Rồng, trang 271 – 272 )

  Khai triển

Đây là đề tài chống giặc giữ nước của Vua Hùng.

1. Sự chuẩn bị xa

        Khi phát hiện ra ý đồ xâm lược của giặc Ân, Vua Hùng liền triệu tập quần thần lại để thống nhất ý kiến của quần thần về việc chống giặc giữ nước.

2. Hội nghị triều đình

        Đây một thứ hội nghị Diên Hồng cấp cao gồm những tay mưu sĩ, để tìm ra phương kế hay để chống giặc và trước hết để tìm cách huy động sự nhất trí của triều đình và nhân dân.

3. Lập đàn cầu Tổ

        Vua Hùng đắp đàn trai giới, dâng lễ vật và đốt hương cầu tế 3 ngày đêm. Tại sao phải cầu đảo Vua lạc Long và để làm gì? Vua Hùng còn nhớ rõ bên tai, khi Mẹ Tiên chia tay với Cha Rồng, đem con lên núi lập quốc, Cha Rồng đã căn dặn: khi cần thì gọi, Ta về ngay”.

        Cầu Tổ trước hết là vâng lời căn dặn của Tổ, vì Tổ chính là niềm tin, là Hồn thiêng Sông Núi, và là trụ bám của cả dân tộc. Tổ Lạc Long là loài Rồng, là Tổ tiên của Việt tộc đã khai sáng ra nước Văn Lang, một nước rất thịnh trị .

        Rồng là loại mưu trí biến hoá khôn lường, ẩn nhận vô song và hùng dũng khôn tả. Cầu xin Tổ là để được tiếp hợp với sức sống dũng mạnh của Tổ tiên, để làm tuôn trào mạch sống của dân tộc. Tổ là gốc, là khởi điểm và cũng là tụ điểm của toàn dân, có kết hợp được với sức sống Tổ thì mới quy tụ con dân về một mối, để có sức mạnh tổng hợp của toàn dân. “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, thì toàn con dân Việt nhất trí dưới sự phù trợ của Tổ tiên, chắc chắn sẽ có sự biến hoá khôn lường và hùng dũng khôn tả của Vua Lạc .

Làm được việc đó thì giặc nào cũng bị ta đánh bại. Cầu Tổ để được soi sáng để được phù trợ là vậy.

4. Tổ hiện ra

        Sự thành khẩn của Vua Hùng đã đem lại cảnh “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” giữa con cháu và Tổ tiên, lẽ nào Tổ chẳng hiển linh mà phù trợ. Quả nhiên, sau khi cầu đảo, trời chớp sấm mưa, Tổ mới hiện ra dưới dạng của một ông già, tướng mạo kỳ dị, ngồi ở ngả ba đường nói cười, ca múa. Tổ hiện ra trong lúc trời mưa sấm chớp là dấu chỉ cho Vua Rồng để cho con dân Việt nhận ra Tổ là Lạc Long đó, chứ không phải quỷ ma hiện hình. Tổ có hình giáng dị kỳ để cảnh tỉnh mọi người kể cả Vua, đây là việc hết sức nghiêm trọng, không được vì khiếp nhược hay vô trách nhiệm mà để mất nước cho giặc. Tổ không hiện ra nơi lập đàn, mà hiện ra nơi ngả ba đường, là nơi tụ họp của người dân, đó là lời nhắn nhủ với nhà Vua là phải đi ra vận động với toàn dân mà cứu nước. Tổ nói cười ca múa là dấu chỉ Tổ muốn an ủi con cháu là phải lạc quan, phải tin tưởng, vì có ta phù trợ, mọi người đừng có lo sợ, mà quyết tâm cứu nước. Khi dạy bảo xong, Tổ lại biến mất vào không trung như Rồng.

5. Lời dạy bảo của Tổ

        Khi vấn kế, Tổ bảo với Vua Hùng: 3 năm nữa giặc mới tới đánh, nay phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ tốt, tìm khắp trong thiên hạ cho ra người có tài cứu nước. Còn 3 năm nữa giặc mới tới đánh, thì Vua Hùng mới đủ thời gian để sắm sửa khí giới và huấn luyện binh sĩ. Điều này chứng tỏ Vua Hùng biết lo xa. Rảo khắp thiên hạ mà tìm người tài ba ra cứu nước. Thực ra là công cuộc vận động toàn dân, kẻ góp công người góp của, những thanh niên trai tráng, phải chuẩn bị sẵn sàng để chống giặc, khi cần, giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh.

6. Kế sách chống giặc của Vua Hùng

          - Thống nhất ý chí chống giặc của các vua quan.

          - Cầu xin Tổ để được soi sáng, phù trợ, để chuẩn bị kế sách sẵn sàng chống giặc, nhất là phương cách quy kết toàn dân về một mối.

          -Vận động toàn dân, kẻ góp công người góp của, và các thanh niên trai tráng sung vào binh lực và sắm sanh khí giới mà chống giặc.

7. Công việc chuẩn bị và tổng phản công giặc

          - Kế sách Vua Hùng đã có, nay chỉ cho các sứ giả đi khắp thiên hạ trong nước vận động toàn dân góp công, góp của, mà nuôi sức người Phù Đổng.

          - Đi tìm mỏ sắt đúc khí giới, đúc ngựa sắt, đúc nón sắt, tức là chuẩn bị quân nhu và quân cụ. Triều đình nhất trí, toàn dân kết thành một khối, binh sĩ đã được tôi luyện, khí giới đã sẵn sàng, thì tới giai đoan Tổng phản công.

8. Lệnh tổng phản công

        Khi đã nhập vào được nguồn sống qua Tổ, toàn dân đã lấy lại được niềm tin, toàn dân kết thành một khối, vua quan và quân dân một lòng, trăm người như một quyết tâm đuổi giặc, mọi người đem hết khả năng, phương tiện cho công cuộc cứu nước. Với sức mạnh tổng hợp của toàn dân, thì những đòn sấm sét đó không giặc nào chống đỡ nổi. Chỉ chờ quân giặc tới, nhà Vua ra lệnh tổng phản công là toàn quân toàn dân toàn diện vùng lên mà phản công giặc, đó là con nhà trời vùng lên tiêu diệt giặc.  Toàn thắng đã nắm chắc trong tay nhân dân rồi.

9. Con người Phù Đổng

          - Em bé Phù Đổng đã 3 năm mà chỉ nằm ngửa, không nói, không cười, là hiện thân của Vua Lạc khi còn ẩn nhận nằm sâu dưới lòng biển khơi, còn đợi cho đến lúc được sung mãn về mọi mặt, nên chưa tỏ rõ mình ra. Đây là con người anh hùng khi “gặp khúc lươn”, nên đang ẩn nhận cuộn lại cho vắn”.  ( Số 3 chỉ con Người Nhân chủ: tự Chủ, tự Lực, tự Cường .)

          - Gặp khi cần thiết, nhất là khi quốc gia lâm nạn, thì mới đến giai đoan Khi vươn thì dài.  Thật ra con người Phù Đổng không chỉ là em bé lạ lùng, đến 3 tuổi mà không nói, không cười, không đi, rồi đột nhiên được cung cấp mọi thứ cần thiết là lớn lên như thổi, có sức mạnh phi thường, nên đó phải là một em bé dân tộc Việt, được toàn dân đóng góp mọi thứ để cho lớn lên, thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn dân Việt trở thành một Phù Đổng .

        Phù Đổng là cả nước đánh giặc. Phù Đổng là tập hợp của những Con Người Nhân Chủ ( số 3 ), hết sức tự Lực tự Cường.  Để toàn dân trở thành Phù Đổng thì thời gian chuẩn bị ít nhất cũng 3 năm. Phù Đổng thật là con dân của Lạc Long và cũng miêu duệ của Bàn Cổ, nên có tài biến hóa :

Anh hùng khi gặp khúc lươn,

Khi cuộn thì vắn , khi vươn thì dài. 

          - Vì không là Phù Đổng cá nhân, mà là Phù Đổng tập thể, nên khi đã đánh xong giặc thì ai về nhà nấy, nào đâu phải là người đánh giặc thuê mà ngồi đợi chức tước và hưởng bổng lộc một mình. Nhưng tất cả Phù Đổng của dân việt đều chạy đến núi Việt Sóc, cởi áo ( làm xong nhiệm vụ ) mà siêu về miền An việt, tức là cuộc sống an bình hạnh phúc trong mọi xóm làng.  Quả thật Phù Đổng là những trai hùng gái đảm của Việt tộc, những con người Nhân chủ, đầy nhân trí dũng, luôn luôn biết tự lực tự cường.

10. Bộ Huyền số của Việt tộc

“ Có bản chỉ nói Hùng Vương, có bản lại nói là Hùng Vương thứ 6, thế là sai với toàn bích nói đến số 3 năm lần: Cầu đảo 3 ngày, Ngồi ở ngả 3 đường, 3 năm giặc mới đến, 3 năm sau, Trẻ 3 năm mới nói. Như vậy thì ẩn ý trong số 3 đã quá rõ.

Có bản nói ông già cao hơn 9 thước thì đúng hơn, vì tự 3 tới 9 là bộ huyền số đi đôi.

50 cân sắt làm sao đủ để đúc ngựa, kiếm, mũ?  Trẻ đứng lên cao hơn 10 trượng, nhảy mũi hơn 10 tiếng:  Ta có 2 lần: 10 = 2 . 5 .    Vậy quả ta có bộ huyền số: 2 , 3 , 5 , 9 , đó là bộ số của văn hoá Việt tộc “ .                                    

( Kim Định : Kinh Hùng khải triết, trang 186 )

 

11. Ca dao tục ngữ

Gương Trai hùng

 

Trong dậy, ngoài lậy.

 

Lạt mềm buộc chặt hơn mây.

 

Anh hùng khi gặp khúc lươn

Khi cuộn thì vắn , khi vươn thì dài.

 

Đã sinh ra kiếp đàn ông,

Đèo cao núi thẳm sông cùng quản chi.

 

Mạnh mà mềm dẻo mới nên,

Khác gì dòng nước chảy trên sông ngòi.

 

Trượng phu không nhiễm thói trần,

Không sợ nghèo khó, không thân sang giàu.

 

Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo,

Khi nên trời giúp công cho,

Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.

Trời sinh trời chẳng phụ nào,

Công danh gặp hội anh hào ra tay,

Trí khôn rắp để dạ này,

Có công mài sắt, có ngày nên kim.

 

Đã sinh ra ở trong Trời Đất,

Phải có danh gì với núi sông.

( Nguyễn Công Trứ )

 

Huyết khí chi Dũng, bất khả hữu.

Nghĩa khí chi Dũng, bất khả vô.

Cái Dũng của huyết khí, không nên có,

Cái Dũng của Đạo lý, không thể không ).

 

Mẫu gái đảm

Canh một dọn cửa dọn nhà,

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm,

Canh tư bước sang canh năm.

Trình anh dậy học chớ nằm làm chi,

Nữa mai chúa mở khoa thi

Bảng vàng chói lọi, kìa đề tên anh

Bỏ công cha mẹ sắm sanh,

Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.

 

Xin chàng kinh sử học hành,

Để em cày cấy, cửi canh kịp người.

Mai sau xiêm áo thảnh thơi,

Ơn giời lộc nước, đời đời hiển vinh.

 

Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,

Nay anh học gần, mai anh học xa,

Tiền gạo thì của mẹ cha,

Cái nghiên cái bút, thật là của em.

 

Em là con gái Phụng Thiên,

Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng,

Nữa mai chồng chiếm bảng vàng,

Bỏ công tẩm tưới vun trồng cho rau.

 

Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu,

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa .

 

Đôi bên bác mẹ cùng già,

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông,

Mùa Hè cho chí mùa Đông,

Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi,

Hết gạo thiếp lại gánh đi,

Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao,

Hỏi thăm đến ngỏ thì vào,

Tay đặt gánh xuống, miệng chào thưa anh.

Từ khi em về làm dâu,

Anh thì dặn trước bảo sau mọi nhời,

Mẹ già dữ lắm em ơi,

Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha,

Nhịn cho nên cửa nên nhà,

Nên kèo nên cột, nên xà tầm vông

Nhịn cho nên vợ nên chồng ,

Thời em coi sóc, lấy trong cửa nhà,

Đi chợ thì chớ ăn quà,

Đi chợ thì chớ rề rà ở trưa.

Dù ai bảo đợi bảo chờ,

Thời em nói dối con thơ em về.

 

Anh ơi ! phải lính thì đi

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em,

Tháng chạp là tiết giồng khoai,

Tháng hai giồng đậu, tháng ba giồng cà ,

Tháng ba cày vở ruộng ra,

Tháng tư gieo mạ thuận hoà mọi nơi,

Tháng năm gặt hái vừa rồi,

Giời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng,

Anh ơi! giữ lấy việc công,

Để em cày cấy, mặc lòng em đây.

 

Anh đi, em ở lại nhà,

Hai vai gánh vác, mẹ già con thơ,

Lầm than bao quản ( muối dưa ) nắng mưa,

Anh đi, anh lựa chen đua với đời .

      Thánh Gióng

Là tinh thần An Vi, tức hành động an nhiên tự tại, làm mà không để cho mình bị trói buộc vào hậu quả. Thấy đáng làm là làm, làm cực hăng say mà không để trọn tâm trí vào công hiệu như ở đợt lợi hành. Ông tổ của triết lý An Vi chính là Thánh Gióng. Thánh Gióng chỉ là một trẻ thơ ba năm chưa biết nói, nghĩa là không cần nói mà cần làm, và làm những việc lớn lao cao cả như thương nước yêu nòi, thấy giặc Ân xâm lăng đất Tổ thì ra đánh, đánh tận tình, đánh hăng say đến độ nhổ cả từng cụm tre già vất vào mặt giặc. “Đứa thì sứt mũi, sứt tai. Đứa thì chết chóc vì gai tre ngà”. Nhưng khi thắng trận rồi lại không màng công danh, bổng lộc, không để ý đến cả ca khúc khải hoàn mà vụt bay lên trời.

Thánh Gióng hóa ngày mùng Chín tháng Tư, tức là số Chín Trời đặt trên số Bốn Đất và vị Thánh, là sự biến đã đạt Tam Tài Thiên Địa Nhân hợp nhất kỳ diệu.

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...