SỬ TÀU XUYÊN TẠC NHỮNG GÌ
1. Những vị khai thiên lập địa đầu tiên – Tam Hoàng còn gọi Tam
Vương.
Tân quốc văn (quyển 5 bài I)
có viết “Hỏa thực thủy ư Toại Nhân,
súc mục thủy ư Phục Hy, giá sắc, y dược thủy ư Thần Nông”.
Các vị sáng lập này có lâu đời trước khi người Tàu vào Trung Quốc. Quyển Tân
quốc văn đã thâu thập từ nhân thoại (trong dân chúng) nên là chứng tích vô tư. Ðó là một số lý do cho phép nghĩ rằng Viêm Việt đã đi vào nông nghiệp
trước Tàu và nếu cứ căn cứ vào niên kỷ truyền thuyết của Toại Nhân là năm
6.000, Phục Hy là năm 4477 và Thần Nông 3326. Toại Nhân là thời săn bắt hái
lượm, mới tìm ra lửa, Phục Hy là thời Viêm Việt bước mạnh vào súc mục, còn Thần
Nông là thời đi vào nông nghiệp. Các học giả đời mới hạ thấp hai niên kỷ trên
xuống 1628 cho Phục Hy ( tức 2852 thay vì 4477 cũ ) và 583 cho Thần Nông ( tức
2737 thay vì 3320 cũ ) là vô tình bóp méo truyền thuyết của Viêm Việt để sáp
nhập vào sử của Hoa tộc.
Vậy
phải coi niên kỷ cũ là của Viêm Việt và cần được duy trì thì mới hợp với những
thám quật ở Non Nok Tha và Hang Thần cũng như Lang Chử, Phương Tị Ðầu . . .
Giả thuyết cho rằng Phục Hy, Thần Nông là
Tổ của Tàu, còn Việt Nam chỉ nhận là cháu ba đời, cũng đồng ý rằng Phục Hy và Thần
Nông không có mặt tại Hoa Bắc. Vậy thì ở đâu ? Nếu xét theo niên kỷ truyền
thuyết ( mà ở đây không có căn cứ khác ) thì phải ở Hoa Nam vùng Tứ Xuyên và
sông Hoài vì câu chuyện Lộc Tục với họ Hồng Bàng của Ta xẩy ra năm 2879, tức
lâu trước khi Hoàng Ðế vào nước Tàu ( 2697 ) .Và tuy Ðế Minh chỉ nhận cháu 3
đời của Thần Nông thì cũng hơn Tàu không có liên hệ nào tuy có truyền thuyết
nói Hoàng Ðế với Thần Nông cùng một Tổ là Thiểu Ðiển, nhưng khó chấp nhận và
cách nhau cả hơn 600 năm, lại ở xa dưới miền Nam và cực Ðông vùng Bắc Kinh, là
miền mãi đời Hạ, Tàu cũng còn chưa tới được, thế mà Thần Nông lại có con cháu ở
Hoa Nam, thí dụ Tam Miêu con cháu của Tấn Văn Chi chòm của Thần Nông. Vì thế
chính sử Tàu không kể tới, còn truyền thuyết nhận Thần Nông Phục Hy là Tổ người
Tàu thì chẳng qua là chuyện lộn xộn do xâm lăng chiếm đất thì cũng chiếm luôn
Tổ và nhận vơ, chứ nếu cứ xét theo huyền thoại thì Phục Hy không phải là người
Tàu. Bà Hoa Lư dẫm vào lốt chân người to lớn ở Lôi Trạch mà đẻ ra ông Phục Hy,
vậy là Phục Hy được sinh ra theo lối “Dã hợp” của Viêm Việt. Có truyền thuyết
nói về thần Nữ Bạt sợ điền Tổ ( Thần Nông ) không dám lên trời, Hoàng Ðế phải
cho lên trú ngụ mạn Bắc. Vậy thì Nữ Thần Bạt là con Hoàng Ðế, nay thánh quan
thầy của Hoàng Ðế đã có công giúp ông đánh bại Si Vưu , mà lại sợ Thần Nông thì
chắc khác chủng tộc . . .
2. Hoàng Đế đánh Đế Lai tức Li Vưu, sau bị xuyên tạc thành Si Vưu (Thủ lĩnh
ngu si ngớ ngẩn) ở trận Trác Lộc. (X. Thử
máu văn hóa Việt, Kim Định)
3. Vua Tàu hủy bỏ Trống Quân
Ý tưởng bàng bạc (tức không ý thức minh
nhiên) trong bầu khí trống quân trong các lối hát, các lối hội chùa Lim v.v… mà
ta có thể gọi chung là Hội mùa xuân =
“chơi xuân”. Tuyệt không có một ý nghĩ tội tình nào pha trộn: từ khi hát
đối, liếc nhìn, chọn lựa đến việc tặng hoa thược dược, hoặc trao mấy cành cây
nhỏ bó lại để biểu thị sự đoàn tụ đôi bên và cuối cùng hợp thân v.v… tất cả đều
được làm một cách kính cẩn trang trọng của một cuộc tế tự có tất cả dân làng
tham dự, trong không khí tưng bừng của ngày đại lễ, làm bằng ăn, uống, hát, múa
trong niềm hoan lạc thiêng liêng. Nó soi sáng cho những tích trong lịch sử
chẳng hạn bà Giản Địch nhân lúc đang dạo ngoài đồng nuốt trứng chim én liền có
mang sinh ra tổ nhà Thương… thì ta hiểu ngay được rằng khi bà đi hội vào lúc
hoa nở “ngày xuân con én đưa thoi” nó thoi ngay vào bụng bà nên bà có mang. Sự
có mang đó không hề một ai cho là xấu mà còn mừng cho đứa con của bà sau này
được tôn lên làm vua nhà Thương v.v… Vua nhà Thương được sinh ra do bà mẹ nếu
không Việt trong dòng máu thì cũng được thụ thai trong buổi lễ đầy Việt tính
nên nói là nuốt trứng chim (Kinh Thi Đại nhã bài Huyền điểu). Chim đi với Tiên,
mà lại nuốt trong buổi lễ “giao mối” (người mối lái ở phía nam) tức là trong
một cuộc hát trống quân được kiểu thức hóa. Nói vắn là hoàn toàn Việt nền bà
Giản Địch may mắn hơn bà Khương Nguyên sinh ra Hậu Tắc là tổ nhà Chu . Nhà Chu thuộc du mục rồi sau mới được chuyển
hóa theo văn minh nông nghiệp của Viêm Việt. Cho nên bài sinh dân (kinh Thi đại
nhã) có thể coi là một thứ huyền sử ghi lại sự chuyển hóa tự du mục Hoa sang
nông nghiệp Việt. Thoạt tiên bà Khương Nguyên đi hội mùa xuân. Kinh Thi nói là
bà đạp lên lốt chân người to lớn, bụng sưng lên, nhưng khi đẻ ra thì bà sợ nên
đem con bỏ ngoài đường hẻm. Đó là hậu quả của luân lý thanh giáo Bắc phương
không chấp nhận lối sinh con ngoài hôn phối. Thế nhưng bò dê (hiểu là văn hóa
nông nghiệp) lại đến sưởi ấm và khi Hậu Tắc lớn thì trời ban cho tài trí biết
trồng ngũ cốc (hiểu là đi vào văn hóa Viêm Việt).
Sở dĩ người ta không hiểu vì thói tục trên
đi ngược Bắc phong, nên Hán Nho thường có những câu kể lại cách khinh dễ như
“quân thần đồng xuyên chi dục” của sách Phong tục thông và “Nam nữ đồng xuyên
chi dục” của Hậu Hán Thư và các vương triều của Trung Hoa xưa đã cấm hát trống
quân ở phương nam và gọi việc cấm đó là “đức hóa” của nhà vua và thực chất chỉ
là một cố gắng đàn áp văn hóa Viêm tộc. Sau này Tần Thuỷ Hoàng khoe mình đã
trong sạch hóa phong tục phương nam nhất là ở nước Việt, thì phải hiểu về vấn
đề tình dục (nên đọc cả trang 488 trong quyển La pensée chinoise của Granet để thấy rõ hai tinh thần Hoa Việt).
Trống quân nếu được tổ chức đúng, thì phải ở bên bờ sông dưới chân núi và nhất
là ở cửa Đông và Nam (Socio 79-80). Điều ấy nói lên mối liên
hệ với nền văn hóa Đông Nam của
Việt tộc.
VỤ ÁN xuyên tạc, đốt sách chôn Nho, sửa kinh văn
Nhà Chu kéo dài 897 năm từ 1122-225 phát xuất
từ Tây Di, học Cơ thuộc bộ tộc Nhung (hoặc Khương). Về văn hóa sút hơn nhà
Thương rất nhiều, tuy nhiên chính nhà Chu đã biến đổi văn hóa Di Việt thành
ra văn minh Tàu là do đến sau và cai trị lâu năm, và nhất là vì có
tính cách du mục: phụ hệ, võ biền: đưa vào văn hóa Di Việt nhiều yếu tố du mục
như chức thiên tử (ghé vua thần) quân
đội chuyên nghiệp, luật hình, hoạn quan, hữu nhậm, ưa số 6 và 4, đàn áp đàn bà,
khinh miệt dân chúng gọi là lê dân (dân đen đầu) hay kiềm thủ. Vì có pha
máu Turc tóc vàng nên gọi dân thế. Và cũng từ đấy thì bắt đầu phân biệt Tàu với
Di Việt bằng cách coi khinh và những chữ Di Địch mới hàm ý “rợ mọi” chứ trước
không hề có thế. Vì Tàu đều xuất phát từ Tứ Di cả, nhưng khi đã chinh phục được
Tứ Di rồi thì quay lại khinh rẻ gốc của mình.
Nhà Chu tận diệt sách của nhà Thương,
nhà Tần đốt sách chôn Nho, nhà Hán xuyên tạc kinh văn (Hán Vũ Đế sai Lưu Hâm
làm sách ngụy kinh của cổ nhân gọi là bí thư trong thư viện Thạch Cừ của riêng
triều đình. Các nhà
Thái học ở kinh đô đều phải dùng sách ở thư viện Thạch Cừ). Và sau này tuy đã
nhận Nho nhưng vẫn còn lưu lại hai yếu tố phát xuất từ Tây là hoạn quan (Iran )
và pháp hình để kiểm soát nho sĩ.
Hán Vũ Đế còn nghe Đổng Trọng Thư mà bãi bỏ bách gia chư tử.
Điều đó làm cho nhiều người công phẫn với Thư, và đổ cho Thư là đổ đường cho
Nho giáo đi đến chỗ độc tôn. Sự thật thì không phải là bãi bỏ bách gia chi hết
mà chỉ là kế hoạch chính phủ dùng để vừa lấy lòng dân vẫn sùng Nho giáo, vừa
chiếm độc quyền kiểm soát việc chú sớ kinh sách và cả đến "san định"
lại các kinh truyện đã bị thất lạc sau vụ đốt sách chôn Nho của Tần Hoàng. "Do đấy mà Lưu Hâm được sai ra làm sách
nguỵ kinh của cổ nhân gọi những sách bí thư trong gác Thạch Cừ của riêng chính phủ, tư nhân không ai có. Ở cái thời
mà sách vở làm được rất khó khăn, chính phủ lại độc quyền tư hữu, những nhà
thái học chốn kinh đô đều phải dùng sách ở gác Thạch Cừ, làm sách Thái sử coi
như gia pháp" (Thục IV, 25) thì việc uốn nắn cho Nho giáo trở thành
công cụ của óc độc tài chuyên chế có thể thi hành cách êm thắm. Vì thế mà trải
qua bao đời mà rất ít người nhận ra hay có nhận ra đôi chút nhưng chưa bao giờ
nghĩ tới việc gạn lọc cho Nho giáo trở nên tinh ròng. Hầu hết chỉ thấy "tử
viết" thì cho là lời của Khổng Tử rồi lôi ra để hoan hô hay đả đảo tuỳ
khuynh hướng, mà không nghi ngờ gì đến sự kiện lịch sử lớn lao trên đây. Do đó
ta có thể cho việc bãi bỏ bách gia này
là một cú chí tử đánh trúng tim gan Nho giáo; đem đặt vào miệng Khổng Tử những
điều ông đả kích, để môn đệ ông phải chấp nhận và từ đấy Nho giáo đốc ra Hán
nho. Vì thế ngày nay muốn tìm cho ra tư tưởng chính truyền của Nho giáo,
chúng ta gặp khó khăn phụ trội: là phải phân định lại những câu trong tứ thư
ngũ kinh có phải là của Nho chăng hay phải trả về cho chủ cũ của nó. Đó là một
việc làm rất dài hơi, đòi rất nhiều công trình thuộc văn học. Ở đây chúng ta đứng trong cương vị triết lý
thì sẽ dùng phương pháp triết lý; đó là nguyên lý nhất quán, nghĩa là tìm ra
tinh thần Nho giáo nguyên thuỷ làm hồn và gạch bỏ những điều trái với tinh thần
đó. Sau đây là vài thí dụ: Trong Luận Ngữ chương XVI.2, Khổng Tử
nói: "khi thiên hạ có đạo thì lễ
nhạc, hình phạt, chinh phạt đều do thiên tử… Thiên hạ hữu đạo tắc lễ nhạc,
chinh phạt tự thiên tử xuất… chính bất tại đại phu… thứ nhân bất nghị". Câu này
rất dễ giải nghĩa theo lối chuyên chế nên có thể nghi ngờ là do luật gia xen
giặm ít nhiều, nếu không toàn bích thì cũng một số chữ đủ bẻ quặt ý nghĩa. Trước hết ngay từ ngữ đã nói lên điều đó.
Trong câu dùng chữ thiên tử. Chữ này theo nghĩa gốc có tính chất thần thoại:
coi vua như con Trời nên được những người chủ trương "kế thừa huyết thống Thượng Đế" ưa dùng, vì nó bao hàm ý
tưởng nâng ông vua lên một bậc cao xa vượt hẳn dân chúng. Vì thế Khổng Tử không
dùng chữ thiên tử mà chỉ dùng chữ Vương. Trong Luận Ngữ ông dùng chữ đó có một
lần (III.2) nhưng là khi trưng lời Kinh Thi: "Thiên tử mục mục"
(thiên tử phúc đức). Mạnh Tử dĩ nhiên cũng theo thầy và chỉ dùng chữ Vương, còn
những lần ông dùng chữ thiên tử như "đắc
hồ khâu dân, nhi vi thiên tử" thì rõ rệt là ông có y chọi chữ (le
contraste des termes) để nói lên chủ trương kế hiền của ông: "thiên tử chẳng có nghĩa thần thánh chi
mà hễ được lòng thắng dân là thắng cử". Chữ Khâu dân chỉ người dân ở
đồng bái, thuộc thành phần "bố cu mẹ
đĩ": hèn hạ là thế đấy nhưng hễ ai chiếm được lòng nó là làm đến tột
phẩm cao sang, tức là làm Thiên tử. Nếu gặp một đôi trường hợp khác thì nên cân
nhắc theo đồng văn để nhận ra dụng ý tác giả.
Trích những tác phẩm trong Triết Lý An
Vi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét