013058 VỤ HIẾP DÂM LỊCH SỬ LỚN NHẤT CHƯA ĐƯỢC TUYÊN ÁN
Bàn về văn minh Hy Lạp ông W. Durant có mở
đầu một câu “khó có thể thiết lập một nền
văn minh mà không cướp phá, cũng như khó có thể duy trì văn minh mà không phải
dùng đến nô lệ” (Civ II.10). Đó là câu đáng ghi nhớ vì nó thực cho hết mọi
nền văn minh. Chữ văn minh ở đây xin được hiểu theo nghĩa chuyên biệt ngược lại
văn hóa. Văn hóa đi với nông nghiệp vốn tính hiền dịu và tổ hợp theo lối thôn
làng được cai trị bằng tục lệ. Văn minh trái lại đi với thành thị, quân đội,
nhà nước, pháp luật. Phân biệt này tỏ ra rất thuận tiện trong việc tìm về nguồn
gốc, nhất là trong khảo cổ, nên được dùng nhiều trong bộ triết lý An Vi này.
Hôm nay
xin nói về một vụ cướp đoạt lớn nhất mà văn minh Tàu đã phạm đối với văn hóa
Việt: đó là vụ Nữ Oa Thái Mẫu bị Hoàng Đế hiếp. Sự vụ rất phiền toái cần được
một lần phanh phui để thấy rõ cổ sử Tàu ra sao, Việt bị ăn hiếp như thế nào.
Ta đã biết ba cột cái của
Việt là số 2, 3, 5 Nho công thức thành âm dương, tam tài, ngũ hành. Đó là những
ý niệm bao la trừu tượng đã được cụ thể hóa bằng đặt cho những tên huyền sử:
Tam tài trở nên Tam Hoàng là Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông đại diện cho trời, đất,
người. Người chỉ bằng Nữ Oa trong tay cầm cái quy ┼ cũng gọi là thập tự nhai
thành bởi hai nét ngang dọc, nét ngang chỉ đất, nét dọc chỉ trời, hai nét hợp
lại chỉ Người được định nghĩa là Thiên Địa chi đức. Còn ngũ hành được cụ thể
hóa bằng Ngũ Đế là Thái Hạo, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Trong
bảng ngũ hành, hành Thổ quý nhất do địa vị trung ương, được xếp đặt như sau:
Thủy
Kim
Thổ Mộc
Hỏa
Đó là lối xếp cơ cấu với ý
nghĩa siêu hình dành cho Thổ địa vị siêu lên khỏi bốn hành chung quanh để chỉ
Con Người Đại Ngã làm chủ vũ trụ. Đó là lý tưởng, còn trong thực trạng ngũ hành
cũng như âm dương đã bị lạm dụng theo nghĩa ma thuật dị đoan.
Ngũ
hành cũng được dùng vào lịch sử để làm dáng cho triều đại, bắt họ với những tổ
huy hoàng. Theo đó quý nhất là Tam Hòang, thứ nhì là hành Thổ, thứ ba mới tới 4
hành xung quanh. Con người ai chả sính làm đẹp cho dòng tộc, người Tàu cũng
theo luật đó, nhưng đã nổi bật trong vụ này vì có thuyết Tam Hoàng và Ngũ Đế
trợ lực: gia phả quý nhất là móc nối được với Tam Hoàng, nếu không được thế
cũng phải cố níu lấy một Đế nào đó mới chắc có Thiên mệnh trước mặt dân chúng
vì các Đế kế tiếp theo thứ tự tiên thiên ngũ hành, nên móc nối dòng tộc vào
được ngũ đế là chứng minh được thiên mệnh cho dòng tộc. Triều đại nào lên ngôi
đúng vào hành Thổ thì sang vô cùng. Vậy ta hãy xem các triều đại xếp đặt theo
thứ tự các hành, các hành theo thứ tự các mùa như sau:
Mộc chỉ
mùa
Xuân
màu xanh
Hỏa chỉ
mùa
Hạ
màu đỏ
Thổ chỉ
mùa
Tứ Quý màu
vàng
Kim chỉ
mùa
Thu
màu trắng
Thủy chỉ
mùa
Đông
màu đen
Đó là thứ tự vòng sinh: Kim
sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Ngũ Đế đầu tiên xếp theo
vòng sinh này mở đầu bằng Thiếu Hạo cũng gọi là Kim Thiên. Ngược lại thứ tự
khắc: Thủy khắc hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Cuối đời
Chu đã bắt đầu lập lệ đặt gia phả triều đại, nhà nào cũng cố móc nối với một
ông lớn như Nghiêu Thuấn, Chuyên Húc, Hoàng Đế. Tư Mã Thiên có lẽ vì nể Đạo Lão đã dùng vòng kháng khắc đặt Hoàng Đế
lên đầu ở hành Thổ, ông Granet gọi đó là tội gian lận bắt được quả tang đổi
huyền thoại ra sử ký. Theo bảng này nhà Chu ở vào hành Hỏa, dùng màu đỏ
(màu Chu ). Nhà Hán kế tiếp Chu phải là hành
Thủy (thủy khắc hỏa) nhưng hành Thủy tầm thường không xứng với nhà Hán đã mở
mang bờ cõi rộng lớn chưa từng có trong lịch sử Tàu, vậy phải xoay trở thế nào
cho được hành Thổ. Khó chi đâu chỉ việc đẩy Tần Thủy Hoàng ra, chữ Thủy vừa có
nghĩa là thứ nhất mà cũng có nghĩa là nước: Tần Hòang thờ Hà Bá. Vậy khắc Thủy
phải là Thổ. Thế là nhà Hán diệt Tần nhận hành Thổ, đúng điềm triệu xuất hiện
khi lên ngôi trong đó có sâu đất (Thổ) vô kể!
Tuy sự tráo trở đó gọi được
là xuôi, vì thứ tự Ngũ Đế trước chưa phổ biến lắm, nhưng cũng không qua mắt
được một số Nho gia trong đó có Lưu Hàm và con là Lưu Hưởng đã lập lại bảng
sinh với hai điều đổi mới, một là đẩy xa hơn: các người trước như Trâu Diễn
hoặc Tư Mã Thiên chỉ đi đến Hoàng Đế là tận cùng. Trái lại cha con Lưu Hâm gồm
cả Thần Nông và Phục Hy vào nữa. Hai là thêm vào một ít triều đại tùy bằng
“hành thủy đệm” để cho dễ xếp chỗ ngon cho thần tượng của ông như sau:
HÀNH
NHÀ CAI TRỊ
Mộc
Phục Hy
(Thủy
đệm)
Cung Công
Hỏa
Thần Nông
Thổ
Hoàng Đế
Kim
Thiếu Hạo (Kim Tân)
Thủy
Chuyên Húc
Mộc
Đế Cốc
(Thủy
đệm)
Đế Chí
Hỏa
Đế Nghiêu
Thổ
Đế Thuấn
Kim
Hạ Vũ
Thủy
Thương
Mộc
Chu
(Thủy
đệm)
Tần
Hỏa
Hán
Thổ
Vương Mãng
Theo bảng trên Hán bị mất
ghế Thổ phải ra ngồi ghế Hỏa, làm sao được Hán triều hoan nghênh, Lưu Hâm súyt
bị thiệt mạng là thế. Nhưng khi Vương Mãng lên nắm chính quyền liền tuyên dương
bảng trên vì mình được vào trung cung hành Thổ (Hỏa Hán sinh Thổ Vương Mãn),
thế là sang hơn nhà Hán: không thèm móc nối Đế Nghiêu như Hán nữa mà với Hoàng
Đế, tức lên một bậc: tự Đế nhảy lên Hoàng! Hoàng Đế trị theo Thổ đức, Vương
Mãng cũng trị theo Thổ đức với màu vàng chói. Nay ta phân tích thì thấy rõ sự
giả tạo, nhưng xưa ít ai nhận ra nhất là khi Vương Mãn đổ thì lưu truyền đã ăn
sâu lại được biên cả vào Tiền Hán Thư, thế là bảng trên được công nhận chính
thức, được tin tưởng cho đến đầu thế kỷ hai mươi không một ai đặt vấn đề.
Trong bảng trên ta thấy
Hoàng Đế được tôn vinh cùng cực: vừa lên bậc Hoàng, còn Đế thì ở địa vị Thổ.
Không thể tôn vinh Hoàng Đế hơn được nữa. Hoàng Đế được tôn vinh tức là dân Tàu
được lên theo, được tôn vinh đến cùng tột nên Lưu Hướng có đổi bảng khắc ra
bảng sinh, có đưa thêm vào nhiều cải cách cũng vẫn theo Tư Mã Thiên dành chỗ
tốt nhất cho Hoàng Đế. Điều đó không lạ: dân nào cũng có thể làm thế nhưng ở
đây sự tôn vinh kéo theo một sự ăn hiếp là đẩy Nữ Oa ra để có chỗ trống cho
Hiên Viên được tham dự vào đợt Hoàng, nhưng đây là vụ ăn cướp không kịp cạo số.
Vì theo huyền thọai Tàu không bao giờ có tên Hoàng, mà chỉ có Việt mới gọi là
Hoàng Việt. Việt bắt đầu bằng Hoàng kỷ, Tàu khởi ở Đế kỷ. Vậy chữ Hoàng thêm
vào cho Hiên Viên là giả tạo, đồ nghề giả tạo là thuyết Tam tài, ngũ hành. Đấy
là điểm một.
Điểm hai sự giả tạo nọ làm
mất tính chất cân đối âm dương ở bộ ba đầu là lưỡng long chầu nguyệt: Nguyệt là
Nữ Oa làm nguyên lý mẹ ngự giữa hai long là Phục Hy và Thần Nông theo luật Kinh
Dịch “quả vi chủ” (ít làm chủ) được biểu thị bằng quẻ li của Việt tộc. Phục Hy
và Thần Nông là hai hào dương phải nhường chức chủ tịch cho Nữ Oa ở giữa. Cả ba
đều là Việt. Theo phương pháp phân tích máu văn hóa thì Phục Hy, Nữ Oa đều họ
tiên rồng. Phục Hy có họ phong (gió: liên tưởng tới chim) cũng có tên gọi là
Thanh Tinh, rồng xanh, cũng họ rồng như Lạc Long Quân. Còn Nữ Oa sinh tại Đồ
Sơn tên cũ của Cối Kê kinh đô Việt Chiết Giang, lúc qua đời hóa thành chim Tinh
Vệ (cùng họ tiên (chim) như Âu Cơ). Huyền thoại nói: chim Tinh Vệ tha đá “lấp
bể Đông” vì đã chết đuối ở bể. Đó là nói liều, vì Nữ Oa có nghĩa là loài ở dưới
nước (nhái, ốc, cá) ta gặp hình bà đầu người mình rắn, hoặc cá… làm sao chết
đuối được; bà tha đá bỏ xuống biển là dấu nhớ thương Phục Hy, nhớ thương Thanh
Tinh. Chữ Tinh Vệ nói lên sự muốn duy trì bảo vệ mối liên hệ với Thanh Tinh tức
với rồng xanh, vì đó là liên hệ nền tảng. Huyền sử nói bà là em hoặc vợ của
Phục Hy, cả hai chữ chỉ tỏ mối tình thắm thiết, đồng thời nói lên mẫu đề huyền
thoại một số dân Đông Nam Á anh em lấy nhau. Thêm một lẽ Nữ Oa thuộc văn hóa
Đông Nam
của Việt tộc. Mối liên hệ thắm thiết ấy bị Hoàng Đế phá vỡ, đẩy Nữ Oa ra ngoài,
tức văn minh bỏ nguyên lý mẹ để trở nên duy dương du mục. Đó là tính chất nổi
trong văn minh Tàu.
Tàu thờ Hậu Tắc (Lord
Millet) làm điền tổ. Tắc là lúa ruộng khô (pannicled millet) đối với mễ (oriza
sativa), ruộng nước mà điền tổ là Thần Nông. Thần Nông bị đẩy do Hậu Tắc (thành
ra xã tắc) thì vào ẩn ở nông thôn. Nông thôn là tổ của văn hóa, duy trì nguyên
lý mẹ. Còn văn minh ở tỉnh thành chú ý nguyên lý cha. Văn minh du mục thắng thì
nguyên lý mẹ bơ vơ mất chỗ đứng, chỉ còn cách bù trừ bằng lương tri: nói bóng
là gửi những viên đá xuống biển đối với việc đội đá vá trời. Đá chỉ nơi ở của
chim tiên ở trên núi (đá) tức ở giữa trời cùng đất để làm mối liên hệ với cả
hai: cả trời (đội đá vá trời) cả đất chỉ bằng nước bằng hình trên trống đồng,
chim âu (cơ) lao xuống miệng rồng đặt cái hôn sâu thẳm, cái hôn giao cấu để
sinh ra trăm con đang nhởn nhơ múa hát trên thuyền. Vậy thì Tinh Vệ không có ý
lấp bể Đông mà là cố nối lại phần nào mối liên hệ đằm thắm cũ, nó phảng phất 4
câu thơ do tiềm thức cộng thông linh hứng qua ngọn bút tài tình của thi bá
Nguyễn Du:
“Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng bóng hồng lúc gieo.
Tình thương bể thắm lạ điều
Mà hồn Tinh Vệ biết theo chốn nào.”
Đó! Hồn Tinh Vệ không tha đá
lấp bể, mà là gửi cánh hồng về thăm chồng để phần nào cố duy trì “tình thương
bể thẳm” là nguyên lý mẹ. Nhờ sự cố gắng tha đá bỏ bể đó mà văn hóa Việt Nho
chưa đến nỗi đốc ra đực rựa tức còn giữ được phần nào nguyên lý mẹ như sự mềm
dịu, nhu nhã đi với tình người. Còn văn minh do Hoàng Đế lãnh đạo vì đẩy Nữ Oa
ra thì Tam Hoàng trở nên đực rựa: ba cái đực rựa thì quả là duy dương, văn minh
trở nên du mục, võ biền, chuyên chế. Người lập ra bảng này cũng cảm thấy có sự
bất ổn nên thêm tên Cộng Công tuy dòng dõi Thần Nông nhưng đã làm nứt trời khổ
công Nữ Oa phải vá đi vá lại, nên phải kể là Việt gian không thể thay thế Nữ Oa
được. Vả Cộng Công là đực rựa thêm vào thì ra 4 góc: mất cả chữ ba cao trọng
của Tam Hoàng. Vì thế bảng trên không được công nhận khắp hết.
Ta thấy trong các sách Tàu
kể thứ tự Tam Hoàng Ngũ Đế không hợp nhau. Ngũ Đế có Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế
Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Tam Hoàng thì có Toại Nhân, Phục Hy, Nữ Oa. Mỗi sách
có bảng riêng (1). Đây là bài tổng quát không tiện đi vào chi tiết, chỉ cần
biết có sự khác biệt trong các sách để không ngạc nhiên khi nghiên cứu. Sự dị
biệt chỉ nói lên chứng tích của vụ ăn hiếp. Cần ghi nhận nữa là vụ ăn hiếp này
có tầm ảnh hưởng vô biên vì nó không là trò chơi gia phả vô tội vạ mà là đại
diện cho trào lưu chung của nhân loại là văn minh du mục đàn áp văn hóa nông
nghiệp, và tự đấy đã chôn táng nguyên lý mẹ mà chúng ta cần phải phục hoạt (xem
bài Còn Mẹ trong Kinh Hùng). Đó là một việc dài hơi. Ở đây ta hãy nhận định tóm
lược rằng sử Tàu chỉ đáng tin cậy là tự năm 721 trên nữa thì nhận tạm được đến
nhà Thương, ngoại giả đều là huyền thoại, đừng tin là lịch sử, cần phải phân
biệt thực hư vì điều này rất quan trọng đến việc tìm về nguồn gốc văn hóa Việt
tộc.
(1) Ông Eberhard có lên
sổ được cả trăm bảng khác nhau như bảng của nhóm Am Dương, của Hồng phạm của
Trâu Diễn, của Nguyệt Lệnh, của Tố Văn (Hoàng đế nội kinh) của Lễ ký v.v… Need
II. 264
Việt nho chỉ có ý bênh vực
con người chống lại du mục đã hiện thân vào du mục, và du mục bên Viễn Đông đã
bắt tay phần nào với Tàu nên Tàu đã vô tình tư sản hóa những mẫu mực của Việt.
Năm 1919 Tàu làm cuộc cách mạng văn hóa tưng bừng ở tại dùng tiếng Bạch thoại
thường dân làm ngôn ngữ văn học, nhân đó nhiều nhóm nhiều đại học đã đi tìm lại
những chuyện cổ tích, những huyền thoại của thôn dân, của các sắc tộc thiểu số,
thu thập và in ra nhiều ngàn truyện xưa, nhưng sau Tưởng Giới Thạch đã chặn
đứng trào lưu đó, một trong các lý do có lẽ chính cốt là sự tìm kiếm đó làm lu
mờ hoặc phá hủy hẳn những trang đầu oai
nghi của “ngũ thiên niên sử Tàu”, vì các Hoàng Đế cao cả bị ánh sáng khoa học
soi vào thì chỉ còn là những anh hùng thần thoại nghĩa là giả tạo (Hoàng Đế thí
dụ) hoặc là những vật tổ của các bộ lạc man Di. (xem chi tiết trong quyển
Folktales of China by Wolfram Eberhard. The University of Chicago
1965 p.XXXIV).
Vua Quang Trung xưa có giấc
mơ đòi lại hai tỉnh Lưỡng Việt đã bị gọi bằng tên không liên hệ đến chủ quyền
cũ nay đổi ra Quảng Đông Quảng Tây. Ta cần nối chí Quang Trung trong lãnh vực
tinh thần là thâu hồi lại chủ quyền của các truyện huyền sử đã bị coi là của
Tàu: như truyện Bàn Cổ, Tam Hoàng… Hiện bầu khí rất thuận lợi vì được sự trợ
lực của các khoa học tân nhân văn: khảo cổ, dân tộc học, nhân tộc học, xã hội
học, cổ sử, cổ nghệ, cơ cấu luận. Do đó từ 1970 năm xuất bản quyển Việt Lý Tố
Nguyên tới nay tôi đã viết rất nhiều, quan trọng nhất là Sứ Điệp Trống Đồng.
Nhưng xem lại thấy lực bất tòng tâm: cánh đồng mênh mông mà phương tiện và sức
không đủ, nên chỉ xin coi các sách trên là mấy tiếng kèn ra trận gửi đến các
nhà chuyên môn mai hậu để hợp lực viết lại những trang sử thời sơ khai của nước
nhà, những trang sử đầy ứ chất văn hóa cao cả mà bấy nay chưa được khai quật
đúng cung cách.
Hiện thế giới đang có những
cố gắng khai quật như vậy nhưng sự việc không được sai trái như đối với Việt
Nho. Bởi văn hóa Việt đã có lâu đời được thành lập vững bền trước khi Hòang Đế
xâm nhập nên đã để lại ấn tích sâu đậm trong dân gian, nhờ đó nhà nghiên cứu có
được nhiều tiêu điểm đánh dấu bước đường truy căn. Sau đây chỉ xin đưa ra tục
tả nhậm làm thí dụ.
Tả nhậm nghĩa siêu hình là
hướng theo trời, là chỉ “tình thương bể thẳm”. Kinh Thư nói “Tứ Di tả nhậm”.
Bốn Di theo tục tả nhậm. Bốn Di cũng là tứ hải theo sách Nhĩ Nhã là bốn dân
quanh nước Tàu tức là Việt tộc. Tiền nhân cất nhà có lể thượng đòn Đông, lấy
hướng Đông làm trọng (tức là tả nhậm). Con gái ở phòng Đông, con trai ở phòng
Tây, đó là theo lúc Nữ Oa còn làm nội tướng. Các điển chương như Lạc Thư, trống
đồng đều tả nhậm (tiến theo vòng tay tả). Kinh điển Nho chứa đầy lộn xộn khi đề
cao tả, lúc đề cao hữu (như đã bàn trong Việt Lý Tố Nguyên) những sự lộn xộn đó
là những ấn tích quý hóa cho việc truy tầm nguồn gốc. Đại để ban đầu Hoa tộc đề
cao bên hữu, khinh rẻ bên tả, gọi là trái (tay trái) là hèn (tả đạo là tà đạo)
nhưng sau bị Việt cảm hóa dần dần: coi trọng bên tả, khi tiếp khách thì để
khách bên Đông tức bên tả là có ý trọng kính. Đi đường đàn bà bên tả đàn ông
bên hữu (nam tử do hữu, nữ tử do tả. Lễ ký III. 515). Sau còn coi trọng bên tả
bên Đông đến độ dành phòng Đông cho Thái tử kế vị gọi là Đông cung Thái tử. Nay
ta quen nói nam tả nữ hữu là vô tình đi theo Hán nho. Chứ theo Lạc Thư thì về
ngay bên hữu “nam tử do hữu”, chàng ràng bên tả làm chi đây, chực theo đóm
Hoàng Đế ăn tàn du mục hay sao?
Tóm lại vì văn hóa Việt xuất
hiện lâu đời trước, đã để lại những rễ lớn như Lạc Thư, trống đồng, tục tả
nhậm, gái ở phòng bên tả… nên nguyên lý mẹ vẫn còn họat động được phần nào.
Huyền sử chỉ bằng tích:
Nữ Oa đội đá vá trời, tha đá
lấp bể.
Âu Cơ nghi mẫu lâu lâu gặp
Lạc Long Quân trên cánh đồng Tương.
Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm có
hội…
Do vậy việc “Phục Việt” trở
thành một ngành nghiên cứu đầy hứng thú có bằng chứng thi vị mà vững chắc. Hơn
nữa đó cũng là làm việc đóng góp tích cực vào nền văn hóa loài người đang cố
gắng làm sống lại nguyên lý mẹ để tẩm nhuận cho nền văn minh hiện đại đượm thêm
tình người.
Kim Định, Hùng Việt Sử Ca
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét