02002
NHÀ NƯỚC VĂN LANG
CỦA VIỆT THƯỜNG THỊ
Hà Văn Thùy
Trong khi
tìm lại cội nguồn, chúng tôi gặp vấn đề khó khăn nhất, bí ẩn nhất là nhà
nước Văn Lang.
Thư tịch
Trung Hoa, kho tàng vô giá giúp tìm lại quá khứ không ghi chép dù chỉ một lần.
Chúng ta chỉ gặp ở truyền thuyết rồi từ truyền thuyết được ghi thành văn bản muộn
mằn về sau trong các sách đậm màu huyền thoại: Lĩnh Nam chích quái, Việt điện
u linh… Đã có thời theo chủ thuyết duy vật lịch sử, chúng ta không tin vào
truyền thuyết. Nhưng rồi sự thật cho thấy, có những việc của truyền thuyết lại
thật hơn nhiều trang sử. Truyền thuyết nói với ta rằng, “Hùng Vương lên ngôi, đặt
tên nước là Văn Lang…” Ta hiểu đó là nhà nước xuất hiện trước khi dân tộc bước
vào thời có sử, một giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối với lịch sử dân tộc. Nếu
không hiểu thấu đáo về thời kỳ này, mọi cuốn sử trở nên thiếu cơ sở. Để chứng
minh Văn Lang có thật, các nhà chép sử Việt Nam hiện đại đã dựa vào sách Đại Việt
sử lược của tác giả khuyết danh, dựng lên nhà nước Văn Lang được thành lập 700
năm TCN tại đồng bằng Bắc Bộ. Một Văn Lang như thế đã vào chính sử, hiện lên
sách giáo khoa và trong tin tưởng của nhiều thế hệ người Việt. Nhưng rồi khi
tình cờ khảo sát địa chất thủy văn đồng bằng sông Hồng, chúng tôi bỗng phát hiện
chuyện động trời: 700 năm TCN, đồng bằng sông Hồng còn chìm trong nước biển
của vịnh Hà Nội. Chỉ tới 300 năm TCN, khi nước biển rút, phần quan trọng nhất
của đồng bằng mới hiện ra để người dân tới khai thác (1). Những địa danh như Văn Lang, Giao Chỉ… mới hình thành từ đầu Công nguyên. Làm sao mà
có một nhà nước ở nơi như vậy? Nhưng truyền thuyết, tâm linh dân tộc luôn hướng
về nhà nước buổi ban đầu…
Chúng tôi
xin đưa ra một giả thuyết về nhà nước Văn Lang.
40.000 năm
trước, đang trong Kỷ Băng Hà, nhưng lúc này khí hậu ấm lên đáng kể, phía Bắc bớt
lạnh. Người từ Việt Nam đi lên Quảng Đông. Tiếp tục săn bắn hái lượm trên băng
giá nhưng người Việt cũng trồng nhiều loại rau, củ, quả theo phương thức bán thuần
hóa. Nhờ đó nguồn thức ăn được cung cấp nhiều thêm, đời sống được cải thiện và
nhân số gia tăng. Người Việt lan tỏa ra khắp Hoa lục. Khoảng 20.000 năm trước,
tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây, cách biên giới Việt Nam hôm nay hơn trăm cây
số, người Việt chế ra đồ gốm đầu tiên, bước vào giai đoạn ăn chín uống sôi.
Trong số thực vật hoang dại được dùng làm thức ăn, ngày càng nhiều thêm hạt của
loài lúa hoang Oryza nivara. Cùng với thu hoạch hạt lúa tự nhiên, con người tiến
hành thuần hóa lúa. 12.400 năm trước, cũng tại đây, cây lúa trồng Oryza sativa
ra đời. Có được cây lúa trồng với năng suất cao và chất lượng tốt hơn là bước
tiến quan trọng của canh tác nông nghiệp. Cùng với cây kê và giống gà, giống
chó được thuần hóa từ trước, người Việt đưa nông nghiệp lên lưu vực Dương Tử và
Hoàng Hà. 9000 năm trước văn hóa nông nghiệp Giả Hồ, Hà Nam được xây dựng. Cùng
với dụng cụ đá mài bóng tinh xảo, người Việt chế tác đồ gốm đen trình độ nghệ
thuật cao, mỏng như vỏ trứng. Lượng lúa dư thừa, rượu gạo được nấu, đem ngâm với
táo gai và mật ong thành rượu vang. Nghề nuôi tằm xuất hiện. Khai quật ngôi mộ
8500 năm trước, các nhà khảo cổ tìm được protein tơ tằm cho thấy lụa được dùng
cho may mặc. Phát hiện những chiếc sáo bốn lỗ, sáu lỗ và tám lỗ làm bằng xương
chim hạc, có chiếc đến nay còn thổi được, cho thấy hoạt động âm nhạc của người
xưa. Cũng lần đầu tiên tại đây tìm thấy những chữ tượng hình như chữ Nhật, chữ
Mục, chữ Bát, số 20… khắc trên xương thú hay yếm rùa. Văn hóa Giả Hồ là văn hóa
tiêu biểu sớm nhất của người Việt. 7000 năm trước xuất hiện di chỉ văn hóa nông
nghiệp lớn Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Dương Tử. Cũng 7000 năm trước ra đời văn hóa
nông nghiệp trồng kê Ngưỡng Thiều ở miền Trung Hoàng Hà. Đây là di chỉ văn hóa
lớn, đồ đá, đồ gốm tinh xảo. Ở phía Đông Nam trồng lúa, phía Tây Bắc do khí hậu
khô của vùng cận sa mạc nên kê là cây trồng chủ lực với những nhà kho chứa hạt
kê trong những chum vại lớn. Đặc biệt tại di chỉ Bán Pha (Bonfo) tỉnh Sơn Tây,
tìm thấy nghĩa trang với di cốt người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid) rất
gần với người Trung Quốc hiện đại. Các nhà khoa học cho rằng đây chính là tổ
tiên của người Hán.
Một câu hỏi:
người ngưỡng Thiều từ đâu ra? Học giả Zhou Jixu, sau khi khảo cứu dân cư gần
gũi quanh vùng, cho rằng đó chỉ có thể là người từ phương Nam lên. (2) Nhưng
trong sách Nhân chủng học Đông Nam Á, nhà nhân học hàng đầu của Việt Nam Nguyễn
Đình Khoa khẳng định: suốt trong thời kỳ đồ đá, Nam Trung Quốc và Đông Nam Á chỉ
duy nhất chủng Australoid mà không có người Mongoloid. (3) Do vậy không thể có
người Mongoloid từ phương Nam lên. Từ khảo cứu của mình, chúng tôi nhận định: người
Mongoloid phương Nam Ngưỡng Thiều chỉ có thể là sản phẩm lai giữa người Việt chủng
Australoid sống ở bờ Nam và người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống
trên bờ Bắc Hoàng Hà. Do người mẹ Việt sinh ra tại Nam Hoàng Hà, bú sữa
mẹ Việt, nói tiếng Việt và sống trong văn hóa Việt, người Mongoloid phương Nam
là người Việt, sau này được nhân học đặt tên là người Việt hiện đại.
Người Việt trên lưu vực Hoàng Hà nhanh chóng chuyển sang chủng Mongoloid phương
Nam.
Thời kỳ
này người Việt đã trưởng thành về văn hóa: chế tác đồ đá, đồ gốm tinh xảo, nông
nghiệp trình độ cao. Khai quật khu mộ 6500 năm trước tại dốc Tây Thủy trấn Bộc
Dương Hà Nam mà nhiều khả năng là mộ Phục Hy, cho thấy những dấu hiệu
trưởng thành của dịch
lý. Dựa theo truyền thuyết, ta có thể tin, vị tổ đầu tiên của tộc Việt ra đời cùng với tổ mẫu Nữ
Oa.
Trong những
văn hóa khảo cổ trên đất Trung Quốc, văn hóa Lương Chử có ý nghĩa đặc biệt. Đây
là vùng đất thấp cửa sông Dương Tử,
rất thuận lợi cho việc
đánh cá, chăn nuôi gia súc và trồng lúa nên nhiều nhân tài vật lực khắp nơi dồn
về, trở thành trung tâm kinh tế văn hóa phát triển cao nhất của phương Đông thời
cổ.
Khoảng 3300 năm TCN, nơi đây trở thành kinh
đô của nhà nước rộng lớn: phía Bắc giáp sông Dương Tử, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Ba Thục,
phía Nam vươn đến miền Trung Việt Nam. Nhà nước này do Thần Nông, vị vua thần và cũng là tổ của người Việt
xây dựng. Theo truyền thuyết, Đế Minh là cháu của Thần Nông truyền ngôi cho Đế
Nghi. Đế Nghi sinh ra hai con là Đế Lai và Lộc Tục. Đế Nghi cho con cả là Đế
Lai cai quản vùng đất thuộc lưu vực Hoàng Hà, từ Sơn Đông đến Thiểm Tây. Năm
2879 TCN Lộc Tục cai quản giang sơn phía Nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt
tên nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân. Lạc
Long quân truyền ngôi cho con là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi, đặt tên nước
là Văn Lang. Thời
gian này lục địa Đông Á có ba trung tâm kinh tế văn hóa là vương quốc của Đế
Lai ở lưu vực Hoàng Hà, nhà nước của Kinh Dương Vương thuộc lưu vực Dương Tử và
nhà nước của Tàm Tùng ở vùng Ba Thục. (4)
Năm 2698
TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu đánh vào Trác Lộc, chiếm miền Trung
Hoàng Hà của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Đế Du Võng (con Đế Lai) tử trận, nhà nước của Đế Lai tan rã. Một phần bị Hoàng đế chiếm, phần
còn lại chia thành các tiểu quốc hay bộ tộc tiếp tục kháng chiến lâu dài. Do
chiến tranh, một bộ phận người Việt di cư xuống Nam Dương Tử. Thời gian này, lo
củng cố và mở rộng lãnh thổ chiếm được trên lưu vực Hoàng Hà nên Hoàng
Đế chưa dám ngòm ngó
phương Nam. Nhà nước Xích Quỷ chi viện cho đồng bào phía Bắc kháng chiến.
Khảo cổ học
phát hiện, năm 2300
TCN do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử và phần đất phía biển bị nhấn chìm.
Các nhà khảo cổ cho rằng nhà nước Lương Chử tan rã. Nhưng đó là nhận định không
thực tế. Bởi lẽ, một nhà nước có trình độ phát triển cao, với diện tích rộng,
dân đông, giầu có không lẽ gì chỉ vì mất kinh đô mà sụp đổ? Trong thực tế lịch
sử, việc dời đô là điều bình thường của các quốc gia. Sự việc có thể xảy ra như
sau. Nước biển dâng lên từ từ, có thể trải nhiều năm trời. Vì vậy vương triều
cùng người dân tất bàn chuyện dời đô. Khảo cổ chỉ phát hiện vật quý trong các mộ
táng chứng tỏ đã có một cuộc di tản thành công. Trong vương quốc Xích Quỷ cố
nhiên không chỉ có duy nhất đô thị Lương Chử mà phải có nhiều thành phố khác.
Hùng Vương (Không ai biết là thứ bao nhiêu) và triều đình phải chọn một địa điểm
thích hợp nhất.
Lúc này nhà nước Hoàng Đế ở phía Bắc chuyển
sang thời Đào Đường dưới sự cai trị của Đế Nghiêu. Qua năm đời vua từ Hoàng Đế, Chuyên Húc, Thiếu Hạo, Đế Khốc đến
Đế Nghiêu,
phía Bắc theo phong tục Mông Cổ đã khác phía Nam. Người phía Bắc xem dân phía
Nam là ngoại nhân, ngoại tộc, là Nam Man với ý coi thường. Thấy dân phía Nam mặc
váy nên gọi là người Việt Thường (越裳)hay
Việt Thường thị. Văn Lang cử sứ giả tới thăm Đào Đường và biếu rùa thần. Việc
này được ghi trong sử nhưng do quen với danh xưng Việt Thường nên sách ghi Việt
Thường thị mà không ghi quốc danh Văn Lang. Sách Thông chí của Trịnh Tiều thời
Tống (1127-1279) viết: “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần
sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn
ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về
sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.” Cuốn Thượng Thư đại truyện được
viết đầu thời Hán chép: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có
Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch
Trĩ.”
Đó là hai
đoạn văn hiếm hoi xác nhận là có họ (hay nước) Việt Thường xuất hiện từ thời
vua Nghiêu (2300 năm TCN) tới thời Chu (1063 năm TCN). Hậu Hán thư cho biết:
“Sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,”
ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Công việc bây giờ
là phải giải mã những thông tin này.
Để hiểu được
Việt Thường thị thì trước hết phải xác định được vị trí của nhà nước này. Dựa
theo sách Thượng thư đại truyện: “Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường,” sách Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn
(thế kỷ thứ X) cho rằng Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là từ Hà Tĩnh,
Quảng Bình trở vào. Sách Văn hiến thông khảo thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại
chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành.
Chính những sách này dẫn hậu thế lạc đường.
Thừa nhận
việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Trung Quốc là có thể
tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt
Nam vì những lẽ sau:
Các tài liệu
nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm
TCN) cho thấy, địa danh Giao Chỉ lúc đó đã có rồi. Trong khi địa danh Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện, vào
đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN, sau hơn 2000 năm. Điều này cho thấy: Giao
Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam!
Vì không có Giao Chỉ trên đất Việt thời Nghiêu, thời Chu nên cũng không thể có Việt
Thường thị phía nam Giao Chỉ.
“Giao Chỉ
nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường
Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc).
Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời
Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở.
Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời
Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ,
đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán.” (5)
Vậy là,
ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái cột mốc di dộng”
đánh dấu biên địa phương Nam của nhà nước Hoàng Đế, được chuyển dịch ngày càng
xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng
nữa, “cột mốc”mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao
Chỉ. Học giả thời Tấn, thời Nguyên
sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà
cũng chẳng biết lai lịch cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường
là Lâm Ấp”! Phân tích
trên xác nhận Việt Thường
thị chỉ có ở Nam Dương Tử. Câu hỏi tại sao miền Trung Việt Nam vào thời Hán lại
có huyện Việt Thường, có thể giải thích như sau. Sau khi Văn Lang bị diệt, dân
cư văn Lang cũ di cư về Việt Nam, có những nhóm người đến miền Trung. Những người
này lấy tên Việt Thường đặt cho nơi cư trú mới. Sau đó dân cư đông lên thành xã
rồi thành huyện. Nhà Hán lấy tên đất Việt Thường làm tên huyện. Cũng do có huyện
Việt Thường ở miền Trung mà nhiều người, trong đó có các học giả Trung Quốc cho
rằng có Việt Thường thị ở miền Trung Việt Nam. Họ càng tin hơn vì có địa danh
Giao Chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ.
Từ đó ta có thể suy đoán (vâng, suy đoán) rằng, kế tục Xích Quỷ,
nhà nước Văn Lang vẫn hiện diện ở phía Nam Dương Tử. Từ năm 2300 TCN,
kinh Đô Lương Chử bị
chìm, Vua Hùng dời đô tới nơi nào đó trong nước. Chúng tôi đoán nhiều khả năng
về vùng Hồ Động Đình. Sở dĩ chúng tôi có ý tưởng này vì trong truyền thuyết Lạc
Long Quân-Âu Cơ có nhắc tới Cánh Đồng Tương, sông Tiền Đường, hồ Động Đình (Lạc
Long Quân gặp tiên ở Hồ Động Đình và câu hát ru: Gió Động Đình mẹ ru con ngủ/
Trăng Tiền Đường thức đủ năm canh/ Bổng bồng bông, bổng bồng bông/ Võng điều mẹ
ẵm con rồng cháu tiên.) Nhưng xác định cụ thể nơi nào là điều không đơn giản.
Tìm trên “Bản đồ di chỉ đá mới ở Nam Trung Quốc,” chúng tôi thấy có tới 48 vị
trí được ghi số từ 1 tới 48. Chúng tôi chú ý tới năm vị trí, từ 16 tới 20, ở
phía Tây và Nam Hồ. Nhưng cụ thể là đâu? Do tìm lại kinh đô cũ của Tổ tiên là
việc thuộc về tâm linh, chúng tôi bèn hỏi con lắc cảm cảm xạ. Con lắc chỉ vị
trí số 19 là di chỉ Thành Đầu Sơn (6). Đó là di chỉ khảo cổ thuộc huyện Lý tỉnh
Hồ Nam, vùng đất cao bên sông Dương Tử. Một thành phố lớn, có người ở từ 6500 năm
trước và phát triển rực rỡ nhất khoảng 4300 năm cách nay, dân cư khoảng từ 30 đến
50.000 người, được học giả Trung Quốc nhận định là kinh đô của quốc gia. Kiểm
tra tất cả địa điểm còn lại, con lắc không cho thấy vị trí nào khác, chúng tôi
cho rằng, nhiều khả năng các Vua Hùng đóng đô ở đây khoảng 1500 năm từ thời vua
Nghiêu (2300 TCN) qua thời Thành Vương nhà Chu (1063 TCN) tới lúc thành phố bị
bỏ hoang vào khoảng 800 năm TCN. Để chắc chắn hơn, chúng tôi in một bản đồ, gửi đến nhà ngoại cảm
bậc thầy. Ông dùng máy đo năng lượng cảm xạ dò tìm rồi trả lời: “Số 19 anh ạ!”
Một điều kỳ diệu nữa là khi tôi dò tìm kinh đô cũ của nhà nước Xích Quỷ quanh
vùng Thái Hồ thì tới vị trí số 10, con lắc quay thuận. Đối chiếu vào danh sách
thì đó chính là Lương Chử! Phải chăng chính Tổ tiên linh thiêng đưa đường dẫn lối
cho tôi?
Thành Đầu Sơn kinh đô Văn Lang cổ
Kinh đô Thành Đầu Sơn suy tàn vào khoảng 800
năm TCN, nguyên nhân có thể do biến động từ phía Bắc, Vua Hùng dời kinh đô về
Việt Nam?
Khảo cổ học
cho thấy, khoảng năm 2100 TCN, nước biển rút, vùng Lương Chử khô ráo trở lại,
dân các nơi kéo về sinh cơ lập nghiệp, làm nên văn hóa Mã Kiều. Theo sử thì vào
thời gian này, ông Thiếu Khang hậu duệ của vua Vũ tới đây, cắt tóc vẽ mình theo
tục người Việt, sống chan hòa với dân Việt, được tôn làm thủ lĩnh, lập ra tiểu
quốc Việt. Vì ở xa Trung Nguyên, lại nhỏ bé nên không có tiếng tăm gì. Vào thời
vua Câu Tiễn, đánh thắng nước Ngô, làm bá chủ Trung Nguyên, nước Việt tranh chấp
ngày càng tăng với Văn Lang của Vua Hùng. Tiếp đó, nước Sở mạnh lên, uy hiếp
không chỉ nước Việt mà cả Văn Lang. Trước tình thế nguy cấp, vua Hùng buộc phải
di tản. Nhưng ngài đi về đâu? Khảo khắp các di chỉ đá mới ở Nam Trung Hoa,
không thấy nơi nào, chúng tôi dựa theo Ngọc phả Hùng Vương viết “Đoàn người từ
biển đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống (Sông Lam – Núi Hồng) lập kinh đô…” hỏi con lắc
“Có đúng vậy không?” Con lắc quay thuận. Như vậy, khoảng 800 năm TCN, đoàn thuyền
của Vua Hùng tới đóng đô ở vùng Núi Hồng Sông Lam. Từ đây, vua Hùng tiếp tục
lãnh đạo nước Văn Lang gồm Việt Nam và Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Rồi nước
Sở diệt nước Việt, thôn tính cả đất của Văn Lang vùng Lĩnh Nam. Tiếp đó là cuộc
xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Vua Hùng Duệ vương lãnh đạo dân Lạc Việt liên kết
với Thục Phán đánh quân Tần. Sau chiến thắng, Thục Phán chiếm ngôi của vua Hùng,
lập nước Âu Lạc rồi dời đô về Cổ Loa. Là người gốc Việt thuộc bộ tộc Tần, tổ
tiên di cư lên Trung Nguyên lập nước Triệu. Khi Triệu bị diệt, ở tuổi 20, Triệu
Đà bị xung lính xuống đánh Lĩnh Nam, làm huyện lệnh Long Xuyên. Trên đất Văn
Lang cũ ở Lĩnh Nam, Triệu Đà nhân nhà Tần sụp đổ, lập nước Nam Việt rồi sáp nhập
Âu Lạc vào Nam Việt. Cai trị Nam Việt, Triệu Đà vẫn theo tục cũ của người Việt
nên được dân ủng hộ. Gần trăm năm Nam Việt, nhà Triệu đã củng cố quan hệ quốc
gia vốn có từ lâu của dân cư Văn Lang dưới thời các vua Hùng. Khi bị người Hán
xâm lăng, dân Văn Lang vẫn hướng về nước cũ.
Năm 39,
Hai Bà Trưng là hậu duệ của vua Hùng, có uy tín với dân Văn Lang cũ, đã liên lạc
với những lạc hầu lạc tướng vùng Lĩnh Nam, phất cờ khởi nghĩa và được hưởng ứng
tích cực. Trong 65 thành trì đi theo nghĩa quân thì phần nhiều trên đất Lĩnh Nam.
Xin dẫn một tài liệu quý của Giáo sư Trần Đại Sỹ, “Về Thiên Đài nơi tế cáo của
Đế Minh”(7):
“Tại thư
viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như
phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi : Thiên-đài
di sự lục.Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn. Trinh-quán là niên hiệu của vua
Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647) nhưng không biết
Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản
nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh
Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn soạn, phần chép tiếp
theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần
thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy
(1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loại văn
cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh
cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua
là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng,
tôi chỉ được học loại văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi thì ông sẽ hết phục. Tài liệu
Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc Đế Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với
nàng tiên sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy
đài cũng mang tên Thiên-đài, núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Văn còn kể
thêm: « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có
Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua
Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông
cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng
quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được
núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang
đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ».
Tôi biết
vua Bà là vua Trưng, còn tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương
Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mã thời vua Trưng. Tướng Đào Hiển-Hiệu tước
phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ
huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-Đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu,
đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu
cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui
quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng
chùa có hai đôi câu đối :
Thoát thân
Nam thành xưng sư tổ,
Thọ pháp
Tây-thiên diễn Phật- kinh.
Hai câu
này ngụ ý ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải
thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.
Tam bảo
linh ứng, phong điều vũ thuận,
Phật công
hiển hách quốc thái dân an.
Hai câu
này là ngụ ý nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió hòa đó là công
lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.
Nơi có dấu
vết Thiên-đài còn đôi câu đối khắc vào đá :
Thiên-đài
đại đại phân Nam, Bắc.
Nghĩa là :
Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam,
Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt-Thường. Chỗ miếu thờ
của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối :
Nhất kiếm
Nam-hồ kinh Vũ-đế,
Thiên đao
Bắc-lĩnh trấn Lưu Long.
Nghĩa là :
Một kiếm
đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ý chỉ nữ
tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Một nghìn tay đao
do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long.
Kết luận :
« Như vậy
việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. Vì có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới
có trận hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lãnh địa thời vua Trưng cũng như
Văn-Lang xưa quả tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-Đình ».
Lời kể
trong chuyến đi điền dã của học giả Trần Đại Sỹ cho ta thấy, tại tàn tích của
Thiên Đài còn dòng chữ khắc trên đá: Lĩnh địa niên niên dữ Việt-Thường. Đài
đá được xây thời Đế Minh. Nhưng dòng chữ
phải được khắc sau này vì là chữ có sau thời Xích Quỷ. Có thể đoán rằng
vào thời Đường, người dân Việt vùng Lĩnh Nam đã khắc câu đối để tưởng nhớ Quốc
Tổ và hướng về nước cũ. Điều này khẳng định người Việt Thường từ xa xưa là chủ
của đất Lĩnh Nam. Dòng chữ cũng gián tiếp nói rằng, đất Lĩnh Nam thuộc về nước
Văn Lang của các Vua Hùng. Tác giả Trần Đại Sỹ còn cho biết, tại Nam Trung Quốc
có tới 200 ngôi đền thờ Vua Bà. Những chứng cứ vững chắc cho thấy Lĩnh Nam là đất
xưa của nước Văn Lang.
Vào đời Đường,
Lý Triều Uy sáng tác tiểu thuyết Liễu Nghị truyện (柳毅傳). Tóm tắt như sau: “Liễu Nghị
là một nho sinh thi trượt, trên đường gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng
dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ
Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn
dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu
Nghị đem thư xuống Long cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết
con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối,
xin về, được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ,
lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên
cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng.
Sau hai vợ chồng đều thành tiên.” Liễu Nghị truyện được coi là một truyện
truyền kỳ sớm nhất của Trung Quốc. Từ cuối đời Đường, truyện đã được lưu hành rộng
rãi trong dân gian. Dựa vào lời Ngô Sĩ Liên trong sách Toàn thư: “Xét Đường kỷ
chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động
Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động
Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ
lâu rồi,” một số học giả cho rằng, Lĩnh Nam chích quái liệt truyện đã chép lại
từ tiểu thuyết thời Đường rồi sau đó Ngô Sỹ Liên đưa vào sử.
Tuy nhiên,
chúng tôi cho rằng đó là sự suy diễn theo cách nhìn thiếu chiều sâu lịch sử.
Trong khi thực tế là, câu chuyện về Lạc Long Quân-Âu Cơ đã được tiến sĩ Chu
Minh-Văn ghi lại trong Thiên-đài di sự lục vào năm Trinh Quán thời
Đường Thái-Tông (627-647). Cũng theo thời gian, câu chuyện đã thành truyền thuyết
trong dân gian người Việt, từ Nam Dương Tử tới Việt Nam. Từ câu chuyện dân
gian, khi dành lại quyền tự chủ, người tại Việt Nam ghi thành truyện Hồng Bàng
thị trong Lĩnh Nam chích quái rồi vào sử. Trong khi đó, vùng Hoa Nam đã thuộc về
Trung Quốc, người dân dù nhớ nguồn cội cũng không thể ghi vào sử. Dựa vào câu
chuyện tình, nhà nghệ sỹ viết thành tiểu thuyết. Do điều kiện lịch sử cụ thể,
tiểu thuyết ra đời trước. Nhưng cho rằng người Việt chép lại tiểu thuyết Trung
Hoa để tạo dựng nên nguồn cội của mình là cái nhìn chưa thấu đáo. Ngày nay với
khám phá mới về tiền sử người Việt cùng với đoạn ghi chép của Chu Minh Văn, điều
này càng trở nên rõ ràng.
Trước đây
đọc sử, không ít người thắc mắc là vì sao dân Vân Nam rất gần Việt Nam mà không
tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng trong khi dân Lưỡng Quảng đi theo đông đảo?
Nay có thể trả lời: dân Lưỡng Quảng cùng trong nước Văn Lang với Việt Nam còn
Vân Nam thuộc về nhà nước Ba Thục vốn có sự phân cách từ xưa.
Có một câu
hỏi cần được trả lời: Việt Thường thị quan hệ thế nào với nhà nước Văn
Lang? Ta biết, nhà nước đầu tiên của phương Đông là nhà nước của bộ lạc
nên được gọi theo tộc danh mà chưa có quốc danh. Khi thấy sách cổ viết Bào Hy
thị, Thần Nông thị thì mọi người hiểu là nhà nước của bộ lạc Phục Hy, Thần
Nông. Chỉ tới Kinh Dương Vương, lúc này quốc gia đã lớn, bao gồm nhiều bộ lạc vì
vậy lấy tên một bộ lạc làm tên quốc gia tỏ ra không ổn nên dùng tên Xích Quỷ
làm tên nước chung cho mọi bộ lạc thành viên. Khi dời đô tới vùng hồ Động Đình,
trong nội bộ, dân vẫn gọi nhà nước Văn Lang và Hồng Bàng thị. Nhưng chính trị phương
Bắc vào thời Đào Đường đã ổn định, người Hoa Hạ nhìn xuống phía Nam, thấy sắc
dân Việt chuyên mặc váy nên dùng tên Việt Thường để gọi. Rồi tộc danh này trở
thành tên nước, ghi trong sách sử. Sau khi Văn Lang bị thôn tính, người dân Việt
Thường cũ không nhớ được tên Văn Lang và Hồng Bàng thị mà chỉ biết tới Việt Thường
được ghi trong sách sử nên nhận mình là người Việt Thường để rồi làm thành câu
đối khắc lên Thiên Đài. Người khắc cũng biết rằng, tên Việt Thường (người Việt
mặc váy) là tục danh mang tính kỳ thị, phải do ngoại nhân gọi, không thể do tổ
tiên tự đặt. Tuy nhiên đó là tên duy nhất có trong sách sử nên không thể không
dùng. Trong khi đó, tại Việt Nam, dân vẫn quen gọi quốc danh Văn Lang và Hồng
Bàng thị. Chính vì hai danh xưng khác nhau nên phần đông dân Văn Lang không biết
mình còn có tộc danh Việt Thường. Trong khi người Việt ở Nam Dương Tử không nhớ
tổ tiên mình là Hồng Bàng thị với quốc hiệu Văn Lang. Tuy nhiên, do cùng sống
trên một đất nước của các vua Hùng nên khi nhà tan, nước mất, những “dân ấp dân
lân” đã cùng nổi dậy cứu nước. Rõ ràng, người xưa biết việc này và Ngô Sỹ Liên
ghi vào sử “Nước Việt ta lần đầu tới thăm nhà Chu và tặng chim trĩ trắng” là
chính xác. Việc Hoàng Đế Quang Trung đòi nhà Thanh trả hai tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây cũng cho thấy sự thật lịch sử này. Nhưng tác giả Đại Việt sử lược do không đủ
thông tin nên chỉ công nhận Văn Lang theo ranh giới hiện có vì vậy cho rằng
“700 năm TCN, lập nước Văn Lang với 15 bộ trên đất Bắc Việt Nam.” Đáng tiếc là
các cán bộ chép sử ngày nay đã chép sai theo.
Trên đây
là suy đoán của chúng tôi về nước Văn Lang dựa trên tất cả thông tin có được
cho đến hôm nay. Một con rồng bay trên mây đang mất hút về phía chân trời. Thợ
vẽ bất tài là tôi ráng hết sức chỉ vẽ được đến vậy. Xin bạn đọc lượng thứ.
Trước đây,
trong bài Việt Thường thị ở đâu, Văn Lang ở đâu? có viết Việt Thường
cử sứ giả tới nhà Đào Đường là nước Việt tiền thân của Việt Vương Câu Tiễn. Nay
chúng tôi thấy đó là sai lầm vì tiểu quốc của Thiếu Khang chỉ xuất hiện cuối đời
nhà Hạ, khoảng năm 2100 TCN, xin được cải chính.
Sài Gòn, 11.4.2020
Tài liệu
tham khảo.
1.
Hà
Văn Thùy. Xóa bỏ huyền thoại “Nhà nước Văn Lang 2700 năm trước”
https://nghiencuulichsu.com/2019/09/06/xoa-bo-huyen-thoai-nha-nuoc-van-lang-2700-nam/
2.
Zhou
Jixu. The Rise of Agricultural Civilization in China: The Disparity between
Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation.
SINO-PLATONIC PAPERS Number 175
December, 2006
3.
Nguyễn
Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB DH&THCH, H, 1983
4.
Hà
Văn Thùy. Nhà nước Xích Quỷ từ huyền thoại đến hiện thực. NXB Hội Nhà
văn, H, 2017.
5.
城头山古文化遗址
https://baike.baidu.com/item/%E5%9F%8E%E5%A4%B4%E5%B1%B1%E5%8F%A4%E6%96%87%E5%8C%96%E9%81%97%E5%9D%80/5087595?fromtitle=%E5%9F%8E%E5%A4%B4%E5%B1%B1&fromid=759871
6.
Trương
Thái Du. Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt
Nam.http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)
7.
Trần
Đại Sĩ. Về Thiên-đài nơi tế cáo của Đế Minh. -
http://www.vietnamvanhien.net/NuiNguLinh.pdf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét