1 .- Trống Quân: Triết lý nhảy đầm
a.- Cuộc nhảy đầm có tính cách Công thể và Tâm linh
c.- Cuộc nhảy: Kết mối Hoa Tình ( Đại Đạo Âm Dương hòa )
d.- Phương thuốc chữa bệnh Duy: Phục hoạt triết lý hướng dẫn Thân Tâm2.- Trống Quân xét như khôi nguyên:Nghệ thuật sống của Việt tộc
a.- Trống quân biểu hiện nét Lưỡng hơp sinh động
b.- Về nguồn bằng cuộc đấu: Tình, Lý, Nói, Ca
c.- Thời gian và không gian cuộc đấu
d.-Các đấu thủ : Hai bè
e.- Khí giới giao đấu: Ca Vũ
g.- Chiến lợi phẩm cuộc đấu: Kết đôi Hoa Tình
h.- Những mối liên hệ trong cuộc đấu Hoa Tình
3.- Kinh Thi: Chiến lợi phẩm của Trống Quân 4 .- Hát trống Quân là một cuộc Tế Lễ: Tôn giáo Phong nhiêu
* Con gái : Nói thẳng làm thẳng
* Chưa có Tinh thần Thanh giáo kiềm chế
* Con gái làm Chủ tình thế
b.- Hợp với thời tiết: Triết lý Chữ Thời
5 .- Biến thể của Trống Quân
a.- Lột xác của Vương triều để thành Tế Giao
* Tế Giao
* Lễ Phong Nhiêu
* Lễ Phong Thiện, Lễ
* Ý nghĩa chữ
b.- Lột xác phía dân gian
* Không gian và thời gian của hát của Trống Quân
* Sự hợp tác giữa Văn gia và Chất gia
6.- Trống quân đối với Lạc Việt
a.- Việt ngữ hợp với Trống Quân
* Giàu song ngữ, có tính chất co dãn
* Giàu nhạc tính
* Nói như Thơ, Thơ như Nói, Nói, Thơ đều để Ve
b.- Triết lý “ Chí Trung Hòa “ trong cách gieo vần Thơ
c.- Trống Quân với nhịp song trùng của Việt
d.- Tiếng ngân nga của Việt và Hư tự của Tàu
7.- Lạc Việt là Chủ Trống Quân
8.- Trống quân trình bày một vũ trụ sinh sinh hoá hoá
9.- Trống Quân thoả đáp được ba nhu yếu nền móng của con Người
10.- Trống Quân: Cuộc Lễ đủ Tam tài
11.- Hát Trống Quân: Lối thông giao với nguồn Tâm linh
IV.- Địa vực lễ lạy : Nguồn gốc văn minh
1.- Tết Nguyên đán
a.-Gia đình tính
b.-Táo quân
c.-Tổ tiên
d.-Múa lân
2 .- Đoan Ngọ
3.- Trung Thu
1.- Định nghĩa về quốc hồn quốc tuý
2.- Đạo được đặt vào truyện thường nhật
3.- Con Người chủ động trong việc Đạo
4.-Cái Ăn: Khung của Đạo lý
a.- Bề ngoài của cái ăn với cái Nhai no say
b.- Bề trong: Tiết nhịp Hòa giữa ba cõi : Thiên, Địa, Nhân
* Nền tảng trung thực cho triết lý mưu hạnh phúc con Người
* Mừng Tết trong cảnh thái hoa
* Lang Liêu sắm món ăn Hòa cho cả 3 cõi
* Tết: Nghi lễ làm Hòa giữa Người với Người
* Chế độ Bình sản: Nền tảng Tự do cho mọi Người
* Tết: Một ấn tượng tươi vui phấn khởi và trẻ trung
* Có ăn Tết thực sự mới nuôi dưỡng đươc ý chí phục Việt kiến quốc
“ Nhảy đầm là chữ nhà quê còn người trí
thức gọi là khiêu vũ, nghe sang hơn nhưng không cụ thể và bình dân bằng hai chữ
nhảy đầm. Nhảy đầm là do Tây đưa vào nó có tính cách cá nhân còn nếu nhảy đầm
công cộng thì đã có bên ta từ lâu đó là hát Trống quân.
Trống quân không những khác nhảy đầm vì
tính chất công thể tức không nhảy với một bà nhưng nhảy với một đàn bà. Nét thứ hai trong việc nhảy còn có cái gì
linh thiêng bao bọc nên trống quân lẽ ra phải được tổ chức dưới núi, bên bờ
sông ở cửa Đông Nam
của thành hay làng.
Thường
thì những điều kiện đó khó hội đủ nên người xưa đã sáng chế ra tiếng trời tiếng
đất để thay thế cho những điều kiện trên kia. Đó là cái trống đất (đào lỗ xuống
đất) lại có dây chằng ở trên chỉ trời. Khi hát mà gõ lên dây phát ra tiếng gầm
gừ như là tiếng đất tiếng trời đệm theo quấn quýt lấy những lời hát đối của đôi
bên. Còn những lời đối đáp qua lại nhiều khi chở theo rất nhiều yếu tố triết
bình dân. Hãy đưa ra vài thí dụ: miếng
trầu là đầu câu chuyện.
Bè
nữ:
Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà
chào
Bè
nam:
Miếng trầu đã nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là
hơn
Bè
nữ:
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn xem đây đấy thiệt hơn
thế nào.
Bè
nam:
Miếng trầu là nghĩa xướng
giao
Muốn cho đây đấy duyên nào
hợp duyên.
Thí
dụ khác:
Bè
nam
Ở đâu năm cửa nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy
xuôi một dòng.
Sông nào bên đục bên trong?
Núi nào thắt quả bồng mà có
thánh sinh?
Ai mà xin được túi đồng?
Ở đâu mà lại con sông Ngân
Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa?
Ai sinh ra cửa ra nhà nàng
ơi?
Kìa ai đội đá vá trời?
Kìa ai trị thuỷ cho đời được
yên?
Bè
nữ:
Thành Hà Nội năm cửa chàng
ơi.
Sông Lục Đầu sáu khúc nước
chảy suôi một dòng.
Nước sông Tương bên đục bên
trong.
Núi đức Thánh Tản thắt quả
bồng mà lại có thánh sinh.
Ông Khổng Minh không xin được
túi đồng.
Trên trời lại có con sông
Ngân Hà.
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa.
Ông Hữu Sào sinh ra cửa ra
nhà chàng ơi.
Bà Nữ Oa đội đá vá trời.
Vua Đại Vũ trị thủy cho đời
được yên.
Bè
nam:
Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có ai vào hay
chưa?
Bè
nữ:
Mận hỏi thì đào xin thưa:
Vườn hồng có lối nhưng chưa
ai vào.
Ai về đường ấy hôm nay
Gởi dăm điều nhớ gởi vài điều
thương
Gởi cho đến chiếu đến giường.
Gởi cho đến chốn buồng hương
em nằm.
Đại
khái đó là vài mẫu khi đọc lên nhận thấy hai điểm đặc sắc sau đây: Thứ nhất là
tính chất động đích của trống quân khác với nhảy đầm. Nhảy đầm chỉ cần biết đưa
tay đưa chân sao cho hợp với điệu nhạc khỏi phải suy nghĩ, cũng khỏi phải hát
nữa, đã có máy. Trống quân thì phải hoạt động hơn nhiều: miệng phải hát, tâm trí phải
tác động để đối đáp, vì không được hát bài có sẵn mà phải tuỳ cảnh mà sáng tác
lấy rồi hát lên tức khắc cho hợp câu hỏi.
Thứ hai là ý phải từ xa tới gần, mà gần
cuối cùng là việc lấy nhau, nói lên một cách không úp mở nhưng phải
nói “ hoa tình” tức là nói lên cách văn
hoa và như thế nó không phải là một sự vui giải trí như nhảy đầm, mà là việc
làm có chủ đích đưa đến hôn nhân nhưng đưa đến bằng nghệ thuật, bằng múa hát,
tức là một lối triết lý toàn diện. Tất
cả tinh thần vật chất hòa trộn với nhau, chứ không có kiểu phân chia.
Vào
điện hay đền thờ lạy, rồi ra xóm bình khang chui lủi: tinh thần ra tinh thần,
vật chất ra vật chất. Ở đây tinh thần vật chất hòa hợp ngay trong một nơi, một
lúc theo đúng triết lý tìm phi thường trong cái thường thường.
Trở lên là thử đưa ra một hai thí dụ về
sự thấm nhập của triết lý vào trong mọi hành vi cử chỉ của người Việt.
Đấy là ơn ích rất lớn và nếu biết làm phục
hoạt thì sẽ là bài thuốc chữa bệnh thời đại mà Herbert Marcuse kêu là bệnh duy một chiều kích. Hay cũng quen gọi
là nhị nguyên, tức là duy vật hoặc duy linh. Linh thiêng được biểu lộ rất lớn lao trong
bao nhiêu điện đài, bao nhiêu sách, bao nhiêu người hy hiến thân tâm cho tinh
thần. Nhưng vì là nhị nguyên nên anh đi đường anh tôi đi đường tôi.
Đạo
là Đạo.
Đời
là Đời.
Hóa cho nên đời trở nên vô đạo, mặc dầu
các thứ đạo lý truyền bá khắp nơi nhưng vì đứng ngoài đời nên đời vẫn vô
đạo. Nhưng hỏi vậy tại sao người đời không để ý đến đạo nằm ngay trong đời.
Thưa vì đó là điều rất khó và rất dễ quên đi. Rất khó vì người ta dễ chú ý
những cái gì ngoài mình, vì lúc ấy nó là đối tượng, giác quan có thể tác động.
Còn như Đạo đã lẫn vào đời vào thân tâm thì không còn đứng ngoài nên không còn
là đối tượng. Vì thế Kinh Dịch mới nói là “ bách tính nhật dụng nhi bất tri chi
: 百 性 日 用 而 不 知 之 ): Bách tính
dùng hằng ngày nhưng không biết đến. Không biết đến nên là nguy cơ, và mối nguy
cơ đó càng ngày càng trở nên lớn lao vì không những bách tính là thường dân
không biết, mà cả giới trí thức cũng không biết đến nữa, thế mới nguy. Vì từ
lúc ấy họ sẽ đi tìm triết ở xa xăm theo cả hai nghĩa, một là phát xuất từ ngoài
đời sống, đứng ngoài con người nên dễ được tìm thấy, dễ được học hỏi, và do vậy
gây nên cho nền triết lý Việt Nam
một cơn thử thách lớn lao như chưa từng thấy.
Vì hầu hết tri thức trong nước đã bỏ triết nhà để chạy theo triết ngoài.
Có còn cách nào cứu vớt nổi tình trạng
này chăng? Chưa biết, nhưng chắc một điều là nếu không cứu với nổi tinh thần
triết Việt thì chúng ta chỉ còn có triết học để học, nghĩa là để mà chơi. Chứ
còn triết lý tẩm nhuận việc ăn làm, triết lý hướng dẫn thân tâm thì không còn
nữa.
Bởi
vậy dù thành hay bại việc đáng làm là chúng ta hãy cố gắng làm. Và đó là mục
tiêu của quyển sách nhỏ này, và đường lối của quyển này là bình dân. Cụ thể là
những lễ lạy đình đám mà vì tinh thần thống nhất nên chúng ta có quyền coi
chúng như tài liệu chân thực về triết lý bình dân trong đó cái đình là trung
tâm hiện thực nên lấy đó làm đầu đề cho sách: triết lý cái đình.” ( Hết
trích )
( Văn Lang vũ bộ : I. -
Trống Quân như một khôi nguyên . . . Kim
Ðịnh )
“
Trong lãnh vực văn hóa nước ta nếu ai muốn đưa ra một sự kiện vừa căn bản vừa
bao trùm hơn hết còn sót lại từ buổi sơ nguyên thì đó là trống quân. Phải,
chính tục lệ này nếu không cung ứng thì cũng biểu thị cách chói chang, phong
phú hơn hết cái cơ cấu uyên nguyên về vũ trụ quan của tiền nhân Việt tộc cũng
như về mối nguyên lý hướng dẫn trọn nền triết lý nhân sinh của cả miền Đông Á,
nơi nhân sinh quan xây trên đạo vợ chồng: “ Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ “. Vậy
mà trước khi nên được vợ chồng thì phải biết ve nhau, nên Kinh Dịch mở đầu hạ
kinh bằng hai quẻ hàm và hằng. Hàm là
ve: ve gái hay ve trai tuỳ. Còn Hằng là ở với nhau mãi mãi. Đây là một nhân sinh quan được xây trên vũ
trụ quan ở thượng kinh của Dịch mở đầu với hai quẻ Kiền Khôn có nghĩa là Trời
Đất, giao thoa. Nét căn bản nổi bật của văn hóa Việt tộc đầy sinh động nằm
trong đó. Trống quân chính là biểu diễn
lại cái nét lưỡng hợp sinh động. Cho nên nắm vững tinh thần trống quân chính là
hiểu được đầu mối cái cơ cấu triết lý sinh động của tổ tiên xưa kia vậy. Đó quả là điều quan trọng hơn hết trong lúc
này, lúc mà con người khắp nơi đang cảm thấy thiếu thốn cái chi nên nảy ra ý
muốn trở về nguồn.
Khắp
nơi trên thế giới đều đang vang lên chữ về nguồn mà vẫn không sao về cho được,
là bởi thiếu lối về. Với người Đông Á
thì một trong những lối về đó là Trống Quân, nên hiểu trúng được sẽ giúp ta
trên nẻo đường về. Bởi chưng căn bệnh trầm kha của nhân loại hiện nay là bệnh một chiều
kích, cần tìm cho nó con đường nào giàu lưỡng hợp tính hơn cả và đó là trống
quân. Lý do: trong trống quân có
nhiều cặp đôi hơn hết.
Hãy
kể sơ qua: trước hết nó được tổ chức vào hai mùa Xuân Thu. Đó là đôi đầu thuộc
thời gian. Sau là dưới chân núi nơi có suối nước: cặp đôi thứ hai thuộc không
gian. Còn nếu không có núi có sông thì thay bằng cửa Đông Nam , hay cùng lắm thì cửa Nam .
Thứ
ba, nơi hát phải đào một lỗ làm cái trống đất trên có chăng dây làm trống Trời
cũng như làm biên giới giữa hai bè nam nữ đóng vai hai đạo quân.
Còn
khí giới là ca, là vũ, toàn là thứ có nhịp đôi như sẽ phân tích ở dưới.
Cuối
cùng những đôi nào “ bị bắt “ sẽ sang
qua sông, trao hoa cho nhau và hợp thân ngay trên nệm cỏ xanh (đạp thanh). Đó
là đôi uyên ương trong thế sáng tạo hơn cả.
Kèm theo là nhiều trò như bắn nhau bằng những quả cầu làm bằng chỉ ngũ
sắc như nói người Mèo, người Thổ chẳng hạn.
Hoặc nhiều trò chơi khác tương tự
làm cho trống quân càng thêm giàu tính chất sinh động. Tây phương nói “ La vie est un combat: đời là
chiến đấu “ và ngày xưa hay dùng việc đấu gươm mà xử kiện: ai thua là đuối lý.
Như vậy là lý lẽ dựa trên sức mạnh. Đó là lối du mục. Đông phương theo lối nông nghiệp tuy công
nhận đời là chiến đấu, nhưng thay vì đấu gươm thì lại đấu lý, đấu tình, đấu ca,
đấu nói như được bày tỏ mặn mà nhất trong trống quân, một bên hát xướng, bè bên
kia phải hát đáp liền, nếu không là “ thua “.
Điều đó nói lên tính chất lưỡng hợp, mà
lưỡng hợp tính chính là linh hồn của triết lý Việt Nho. Nên
trống quân là một lễ trong có liên hệ:
Tới vũ trụ quan như Trời với
Đất,
Tới quốc gia như Non với
Nước,
Tới làng mạc như của Đông với
Nam
Tới gia đình như hai bè Nam
Nữ đưa đến việc nối dõi tông đường.
Hai
bè dàn quân ra, rồi biểu diễn các tác động của chiến đấu: nào ve, nào ghẹo, nào
thách, nào đố, nào tiến vào đất địch chớp nhoáng lại rút ra vì địch cũng đang
tiến vào đất mình, đong đưa như hai con rồng lượn khúc theo nhịp thùng thình “
vài ba “ của trống ngũ liên: 3 trời 2
đất. Quả là một cuộc chiến đấu quan trọng nhưng đừng sợ chết chóc tang thương
vì đây là “ một cuộc cờ người “: gọi là “ đấu trí mà chơi “ nên thay vì chết
chóc thì chỉ có sống, sống mạnh: sinh sinh, vì cuộc chiến kết hậu bằng sự hợp
thân trên nền cỏ xanh. Trước đó có tặng hoa nên hoa trở thành quan trọng, đến
độ tiếng hoa gắn liền với tình thành hoa tình. Hoa đây thường là hoa lan (hay
thược dược) được trao tặng nhau trước khi giao hợp và sau cuộc đấu mà nàng “
phình phình từ giữa phình ra “ thì đến mùa Thu sẽ làm lễ cưới. Chỉ phác họa sơ
qua thế đã thấy ngay tầm quan trọng của trống quân, nó bao hàm một triết lý
nhân sinh xây trên vũ trụ quan động, nên cũng là một thứ tế tự của toàn dân.
Vậy mà cho tới nay chưa được nghiên cứu thấu đáo nhất là về phương diện triết
lý. Vì thế đó sẽ là điều chúng ta bàn ở đây.( 1 )
( 1 ) : Tài liệu trong việc này phần lớn
chúng tôi mượn của ông Granet trong cuốn Fêtes et chansons anciennes de la
Chine, Paris
1929, sẽ viết tắt là Fêtes. Quyển ấy nhằm tìm hiểu Kinh Thi đúng với ý nghĩa
trung thực của nó. Quyển thứ hai là “ Les Chants Alternés “ của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, Paris 1934, sẽ
viết tắt là Huyên. Bá Nho hay Hán nho đều là Nho đã bị bẻ quặt.
Phương
pháp sẽ là triết lý với sự trợ giúp của xã hội học, cơ cấu luận, tất cả đi
ngược với lối Nho thanh giáo dùng vương triều để giải nghĩa phong tục dân
gian. Còn đây dùng phong tục dân gian để tìm hiểu Kinh Điển, lấy tiếng dân để
hiểu trống quân. Đó cũng là lấy
chất gia làm nội dung tìm hiểu văn gia, nên xoay quanh quyển Kinh Thi, nói có
cả văn cả chất. Đây là sách mở đầu toàn
bộ kinh điển Nho gia, nên hiểu sai Kinh Thi là dễ dàng hiểu sai cả các kinh
sau. Vì Kinh Thi không là chi khác hơn là chiến lợi phẩm của trống quân.
Nói
khác nó ghi tiếng dân nhưng không phải là bất cứ lúc nào mà chính là lúc dân
hát trống quân hay ít nữa cũng theo phong thái của trống quân, trong bầu không
khí đó, hoặc hướng vào đó. Sau này bá
Nho uốn nắn để theo chiều hướng thanh giáo nên không nhận ra điều trên (Fêtes
7). Nhưng cũng nhờ bị cạo tẩy mà nó được
sống qua các đời để nay chúng ta còn có dấu vết đi tìm lại được nhiều tục lệ
cũng như đời sống thời xa xưa. (Về việc cạo tẩy, tức gán tác quyền cho vua quan
xin xem Histoire de la literature chinoise, Prose Georges Margoulies p.13).
Là
chính những yếu tố gặp thấy trong các cuộc tế lễ:
- Bàn thờ
là trống đất trống trời thay cho non và nước khi hoàn cảnh không cho phép có.
- Tư tế là hai bè nam nữ mặc áo đẹp ngày lễ.
- Còn Tế là
sự đấu của hai bè: đấu ca, đấu lý, đấu tình
- Rồi tới Giao
hợp được coi là cái đinh của cuộc lễ biểu thị sự phối hợp cao độ nhất mà
con người có thể hiện thực: nên non phải trèo, nước phải lội, người phải giao.
Ông Granet gọi là “ chịu lễ giao tình “
(communion sexuelle). Cuối cùng có cuộc đại ẩm làm như nghi lễ
Giao thoa với Đất. Tất cả được gọi là
bôn tức lối cưới hỏi trực tiếp: gạ hỏi thằng không môi giới, lẫn làm thẳng,
tức hợp thân liền, với niềm tin rằng năm nào không có “bôn “ thì sẽ mất
mùa. Niềm tin này thuộc giai đoạn bái
vật sau sẽ thăng hoa và truyền sang cho vua: đức hạnh ông vua ảnh hưởng đến
thời tiết. Cả hai niềm tin là một, cùng thuộc tôn giáo phong nhiêu và ở đợt bái
vật, lợi hành. Nói dân gian là công thể (toàn dân chịu trách nhiệm) đến khi quy
tụ vào vua thì một mình vua chịu trách nhiệm về việc mưa gió, nóng lạnh, nhưng
rồi niềm tin đó sẽ được thăng hoa tới đợt triết lý là giúp trời đất trong việc
hóa dục. Đó là một tiến trình đi lên, muốn hiểu đựơc ý nghĩa cần tới bầu khí
bao quanh trống quân.
a.- Bầu khí của cuộc Lễ: Tự do
Trước
hết đó là bầu khí tự do lúc con gái chưa bị bó chân còn có thể một mình đi dạo
trên bờ sông Hán sông Giang, có thể mời trai ăn trầu, cho địa chỉ hội họp.
Mối
tình thôn dã lúc ấy chưa bị thanh giáo cấm đoán hay bẻ quặt nên mọi cử chỉ đều
làm trong tâm trạng vô tội, đường hoàng chứ không phải dấu diếm chi hết. Tất cả
được nói thẳng ra. Người ta đang gánh nước nặng trĩu vai mà dám đường đột hỏi:
Cô kia gánh nước quang mây
Tôi hỏi câu này có lấy tôi
chăng.
Nói thẳng, làm thẳng “ trên Bộc trong đâu “ như thấy ở nước Trịnh nơi giữ được nhiều tục
lệ xưa hơn cả, cũng là nơi có con sông Bộc chảy qua. Nên nhớ Bách Việt cũng có tên Bạch Bộc vì
nhóm ở trên sông này có nhiều nét biểu hiệu hơn cả (Xuân Thu nói đến Bộc rất
nhiều xem bản của Legge tr.273).
Thứ
hai, lúc ấy chưa có câu “ nam nữ thụ thụ bất thân “ phát xuất từ óc Thanh giáo bắc phương nên có
thể tự do ca hát ngoài đồng nội, trên bờ sông, chung quanh bờ giếng, có thể
cùng lên xe, nhìn mặt, cầm tay (xem bài Hưng Ư Thi trong Nguyên Nho).
Điểm thứ ba, gái còn nắm chủ tình thế
nên chính các cô khiêu chiến trước. Phụ lúc ấy còn là cô, cậu mới là phụ, theo phong thái tả nhậm như có thể đọc
thấy rất nhiều trong ca dao Việt, cả đến Kinh Thi cũng còn có chỗ giữ thứ tự thất (vợ) trước gia (chồng) “
nghi kỳ thất gia “ (thi đào chi yêu
yêu) tức âm đi trước dương, gái trước trai.
Nhiều nho gia có thấy điểm này nhưng lại giải nghĩa bằng lý lẽ siêu hình
giả tạo như mùa Xuân dương khí lên mạnh nên con gái (âm) bị ảnh hưởng! Sự thật thì lễ tổ chức vào hai mùa Xuân Thu,
là hai mùa của người hơn hết, đã vậy lại theo tả nhậm: gái nắm phần sáng kiến y
như người trước trời đất.
Cần nhấn mạnh điểm này để đặt nổi sự cấm
đoán của vương triều không cho gái bắt đầu trước mà phải phu xướng phụ tuỳ về
sau.
Điểm
thứ tư cũng rất nền tảng là sự thống nhất và căn cơ của sự thống nhất đó là điển tiết cũng gọi là thời tiết, nên
Kinh Thi cũng có thể coi là quyển triết lý của Chữ Thời
trong
đó hai mùa quan trọng hơn hết là Xuân Thu mà con én đóng vai đại sứ du hành để
thông tin cho các cặp nam nữ biết đã đến ngày hội họp để mà “ đưa thoi “. Như vậy con
én là biểu hiệu của cưới xin tự do đã đưa thoi từ những ngày Xuân của muôn
thế hệ trước, nên trống quân đã trở thành một cơ cấu, một lễ, tức là cái gì u
linh trang trọng dù sức vật lộn với văn hóa du mục đến sau.
Tóm lại yếu tố nền tảng là cuộc tế trong
bầu khí tự do cởi mở của công thể: mọi cái là của chung theo một lối nào đó, có
thể tóm vào hai cặp danh từ là tâm linh và công thể. Đó là những đức tính đi
kèm trống quân và sẽ bị văn hóa du mục phá vỡ.
Vì nét đặc trưng của du mục là độc hữu ngược hẳn với tinh thần công thể
của nông nghiệp: Độc hữu là óc cá nhân riêng rẽ với sự độc quyền là hậu quả tất
nhiên. Khi óc cá nhân thắng thế thì mạnh được yếu thua, càng mạnh càng có
nhiều, chiếm nhiều, chiếm tài sản, rồi chiếm luôn cả đàn bà làm tài sản, vì thế
nảy ra sự cấm đoán đàn bà tự do đi lại, cũng từ đó mà nảy ra tục “nam nữ thụ
thụ bất thân”.
Chính
vì vậy mà trống quân trải qua nhiều cuộc lột xác. Ta hãy theo dõi một số trường
hợp: trước hết với vương triều.
Nói
rằng lễ Tế Giao phát xuất tự trống quân là một câu nói khó có thể xác quyết vì
nó thuộc phạm vi tiền sử bao la. Rất có
thể lễ tế giao là hậu thân của hai lễ Phong và Thiện cũng như Phong Thiện là
một dị bản chính thúc của nhà cai trị có tính cách tương đương với trống quân
của dân gian.
Tuy nhiên trong tiến trình đàn áp trống
quân thì tế Giao có thể đóng vai trò thay thế và nhân đấy là biến thể của trống
quân như học giả Granet đã nhận xét.
Học
giả Maspéro cũng cho rằng lễ tế thêm vào sau đạo Phong nhiêu, CA p.53. Như vậy
là đã hé thấy mối liên hệ giữa hai bên, và trong ý hướng đi tìm chi tiết của
liên hệ có thể kể ra những chặng biến thể từ trống quân hướng về tế Giao.
Ông
Granet đã làm điều đó xuyên qua những tục lệ mùa Xuân của nước Trịnh, Trần, Lỗ.
Ở Trần và nhất là Trịnh có tiếng là duy trì được nhiều tục lệ dân gian nhất thì
người ta thấy hầu còn nguyên vẹn hình thức trống quân như trong Quốc phong bài
Trăn Vĩ. Ở đây xin chú mục vào nước Lỗ vừa là quê hương của Khổng Tử vừa có sự
biến thể rõ hơn. Trong Luận ngữ, thiên XI, câu 25 có lời rằng:
Mộ xuân giả, xuân phục kí thành:
Quán
giả ngữ lục nhân
Đồng
tử lục thất nhân
Dục
hồ nghi
Phong
hồ vũ vu
Vịnh
nhi quy.
Chúng
tôi nhớ khi xưa mới học Nho đến bài này đã cảm thấy có cái chi chèo kéo bí ẩn
lạ thường (như đã bày tỏ trong quyển Tâm Tư, chương IV). Sau này đọc rộng thêm mới nhận ra nhiều học
giả khác cũng khoái đoạn văn trên như vậy, cuối cùng chúng tôi nhận ra sức thu
hút của câu văn là do tinh thần trống Quân còn lởn vởn trong đó.
Bàn thờ là nơi cầu mưa: đó là đài vũ vu,
Tư tế là hai đoàn trai trẻ mối đoàn từ 6 đến 7 người,
Ca hát là vịnh, là phong (hóng gió),
Tế là sang sông như trong câu “ dục hồ nghi: tắm ở sông
Nghi “.
Chịu lễ là quy. Chữ quy theo Vương Thông có liên hệ tới ăn.
Đây là bước thứ hai trên đường hoán thể vì ở bước nhất sách Chu Lễ còn dùng cả trai lẫn gái:
cả vu lẫn hích chỉ khác không còn ở tuổi xuân nữa mà đã lớn tuổi, lại đi tu.
Đây thì không tu, cũng chưa già nhưng toàn trai thì cũng chẳng làm nên được trò
trống gì ngoài sự nhai lại kiểu diễn tuồng trong các nội trú nam sinh: vai nữ
phải hóa trang. Dầu sao đó không chỉ là một cuộc chơi thường nhưng là một cuộc
lễ, vì có sửa soạn xiêm áo cho dịp này trong câu ‘ xuân phục ký thành “ . Rồi
lại có ca vũ dưới đài cầu mưa, nên Vương Thông trong sách Luận Hành cho đó là
lễ cầu mưa.
Sự thực thì không những cầu mưa mà là
cầu mùa, hay đúng hơn là lễ Phong Nhiêu nhưng đang được “ thăng hoa “ : tức đang trút bỏ những gì không hợp cho thời Chu
nữa, thí dụ bỏ bê nữ để khỏi phạm tục “
nam nữ thụ thụ bất thân “. Còn hai việc bôn và đại ẩm thì bỏ hẳn. Vương Thông cho rằng việc đại ẩm nằm
trong chữ quy mà lẽ ra quỹ có nghĩa là một thứ tiệc thánh, nên viết với bộ thực
(Fêtes 156).
Nếu
không là lễ Phong Nhiêu thì tại sao phải hát, phải ăn (quỹ).
Tại sao phải mặc áo xuân.
Tại sao phải hai bè.
Tại sao phải qua sông (dục hồ Nghi có nghĩa như “
thiệp đại xuyên: qua sông “).
Tại sao lại ca hát trên sông và dưới chân đồi (vũ vu)?
Người
ta chỉ tìm ra lối đáp thỏa đáng khi cho đó là trống quân đang lột xác, nói cụ
thể là bỏ hai yếu tố: toàn dân và bè nữ. Đây
là cuộc lột xác thứ hai hay ba. Còn đợt
bốn sẽ đưa sang lễ tế Thiên (hoặc đây là lễ trung gian giữa trống quân và
lễ Nam
giao). Lễ Nam Giao xét về nội dung được
truyền tụng là có từ đời Vô Hoài thuộc thời đại Thần Nông. Vô Hoài có nghĩa là
từ đời nào không ai nhớ được nữa vì lâu quá.
Rồi sau đời Tam Đại gọi là Phong Thiện. Phong là tế Trời: đắp đất cao
lên làm bàn thờ để tế, còn Thiện là tế Đất nên quét sạch đất mà tế (1)
(1) Có mối liên
hệ nào chăng với câu “ phụ đồng phụ chổi, thổi lổi ma lên “ và câu hát múa Lào:
tôi cầm cái chổi, tôi quét cái nhà.
Có
thể Phong Thiện đã là một hình thái biến thể của Trống Quân và cũng là tiền
thân của lễ Nam Giao, với mục đích không được rõ ràng như là Phong Nhiêu của
Trống Quân. Vì có lúc thiên về việc cầu tự cho nhà vua. Khi vua ra tế thì đưa
cung phi đi cùng, người nào được vua ngự rồi thì được uống rượu và trao bao
cung tên để chỉ sự cầu cho có con trai (Fêtes 168). Người ta có thể thấy ấn
tích của Trống Quân trong những sự kiện đặt vào lễ Giao thấy không ổn. Thí dụ tại sao không tế Thiên trong thành như
trong cung điện mà phải ra ngoài đồng, ở phía Nam ? Tại sao có thời tế địa trên phía Bắc, tế
thiên phía Nam ?
Tại sao lại gọi là Giao khi không có giao nào cả?
Và ở đây cũng chỉ tìm ra lối đáp thỏa đáng
trong Trống Quân mà tế Giao là một biến thể: vì có sự giao hợp trên ruộng nên
trống quân là lễ bao giờ cũng diễn trên ruộng.
Đã có dạo người ta tế Địa ở Bắc thành, tế thiên ở Nam , nhưng sau không rõ vì lý do
nào lại dồn một: có lẽ vì cách một cái thành thì làm sao mà Giao. Vì vậy cuối
cùng đưa cả về Nam
và tế Thiên cũng là tế Địa: có xông hương cho Thiên, đổ rượu xuống đất cho Địa.
Còn chịu lễ thì vua ăn và chia cho các quan phần thịt tế gọi là quỹ. Nếu chỉ có
thế là đủ để bù vào chỗ huỷ bỏ cuộc đại ẩm trong trống quân thì đã có những lễ
Bát Chá và Na gọi là trừ tà cuối năm để đón năm mới nên có ăn uống linh
đình. Ban đầu Bát Chá và Na là những lễ
đi theo mùa gặt. Bát Chá là để ăn mừng
gặt xong, và thường đặt ở mùa thu. Sau này được kể như lễ cuối năm đặt ở trục
chí, như vậy là từ trục Phân thuộc nhân chủ chuyển sang trục Chí chỉ trời đất,
thuộc chủ nô (về hai trục chí và phân xin xem bài Xuân Thu trong Ngũ Điển).
Cách giải nghĩa như trên mới hợp tinh
thần xã hội học là dùng tục lệ dân gian để tìm hiểu việc tế tự chính thức. Vì tục lệ có trước và đã đâm rễ sâu vào dân
gian không thể phá nên vương triều phải thích nghi.
Nếu
hỏi tại sao lại gọi là Nam Giao, có người giải nghĩa bằng chữ Cao Môi là thần
coi việc môi giới ở phía Nam: entremetteur de banlieue du Sud (Fêtes 160), nơi
mà các bà phải đến cầu khẩn để thoát nạn không con (trừ kỉ vô tử chi tật) nên
chữ giao do cao đọc trại. Trả lời thế là gượng, ấy là chưa kể chữ Nam
chưa có giải nghĩa. Vì thế xin đưa ra
một lời thưa khác: là chữ Giao nhắc lại nơi phát xuất là chi tộc Dao: có lối
đọc giống chữ Keo mà người Nùng người Thái dùng để chỉ người Lạc Việt. Lối này giải nghĩa được cả chữ Nam là
địa bàn của dân Việt. Dầu sao thì ta cũng đã nhận tên Nam tên Giao, tên Giao,
cũng như xưa đã là chủ tịch nhóm Trống Quân, và hai chữ Giao Chỉ là tên thuận lợi
nhất để nói lên sự giao thoa giữa hai chỉ: đất trời, đông nam, sông núi, nữ
nam.
Vì thế tác động Giao có nhiều: giao
tình, giao lý, giao ca, giao thân, và đại ẩm là giao với đất (giao thực hồ
địa). Như vậy ta thấy nói lễ tế Giao là
biến thể của Trống Quân là câu nói có bằng chứng, tuy xét về nội dung đã mất đi
nhiều, nhất là thiếu dân gian và bè nữ nên nét công thể tính, nhưng có lẽ cần
thải bớt như vậy để dành cho nhà vua đặng để trọng thể hóa. Điều đó tốt, giả sử
Vương triều đã không cấm Trống Quân mà cứ để nó sống song hành với tế Nam Giao
thì mới đúng tinh thần hợp tác giữa chất gia và văn gia.
Nhưng
không may Trống Quân đã bị cấm đoán theo óc du mục chủ nô. Nhưng “ phép vua
thua lệ làng “ nên Trống Quân vẫn sống và cùng với không gian và thời gian mà
biến đổi, ta cần đặt vào đó cái nhìn tổng quan.
Biên cương của dân gian hát Trống Quân
rất rộng từ Hoa Nam xuống tận các đảo Thái Bình Dương, còn thời gian thì có tự
rất lâu đời trước vương triều. Vì
thế việc nghiên cứu đòi rất nhiều công sức. Đã có một số học giả lưu tâm và
được ông Granet thâu lượm lại ở cuối quyển Fêtes. Xin trích dịch ra vài triệt tiêu biểu để độc
giả thấy sơ qua những hình thái khác nhau của trống quân.
Nhật: Bên Nhật trống quân biểu lộ trong lối hát đối gọi là Kagai. Đặc biệt
là lúc hai bè đang hát bỗng ngưng lại rồi một người trong nhóm nay đứng ra ứng
khẩu hát lên một câu, bè kia cũng sẽ có một người đứng ra hát đáp lại: nội dung
vẫn là bày tỏ yêu đương. Tác giả có kể ra một số câu mẫu rất nhiều đoạn giống
thơ “ Quốc phong “. Lối hát Kagai này vẫn còn được duy trì trong dân gian, tuy
giới thượng lưu đã bỏ.
Vân Nam (Fêtes 281): Người Lô Lô làm cả ngày tối lại hát đối.
Xong ngồi từng đôi tặng rượu nhau. Nữ tặng trai trước, trai tặng lại sau. Cuối
cùng ai về nhà nấy ngủ nghỉ mai làm để rồi tối lại hát nữa. Có nói sau khi hát
quay quần cùng uống rượu.
Lô Lô (Fêtes 282): Cuối năm có hát mà còn thêm một thứ lửa trại, khởi hát từ
lúc đi lấy củi về chụm lửa, sau còn thêm đốt pháp cho thêm rộn ràng. Trong
Socio 125, ông Granet nhận xét thơ Lô Lô rất giống Kinh Thi quốc phong.
Miêu ở Vân Nam (Fêtes 283): cũng có trống quân như người Miêu ở Quảng
Tây hay người Thổ ở Cao Bằng, hai bè trai gái cầm tay nhau hát theo nhịp trống
cơm và cũng có những câu hỏi ứng khẩu
phải thưa liền, thưa không được bị phạt rượu uống cho đến say mèm. Có nơi người
thua bị vò tai rất mạnh.
Hải Nam (Fêtes 288): Khi một cậu trai ưa cô nào thì mang đàn
đến gẩy trước cửa nhà cô ấy. Nếu cô ưng thì ra. Khi đã thỏa thuận về các khoản
rồithì trình lên cha mẹ. Cha mẹ làm lễ cưới tại nhà và cậu trai về ở nhà gái.
Người Miêu Tử có thêm vào trống quân trò ném cầu làm bằng chỉ ngũ
sắc và đánh trống đồng. Tất cả các sắc dân ở đây cũng như Vân Nam đều có ít nhiều thói tục này.
Các sắc dân Bô Di, nam nữ bao giờ cũng hợp thân trước rồi mới cưới sau.
Họ không ưa những người nữ ở vậy, y như ở miền Dương Tử Giang và Hán Thuỷ
(Fêtes 291).
Long Châu (Fêtes 293): Các người đi dự mang cơm theo, mỗi lần
hội có cả trên ngàn người. Tuy tục lệ này bị nhà cầm quyền ngăn cản nhưng vẫn
lưu hành trong khắp miền Việt Tây (Quảng Tây). Hễ mỗi lần vua quan Tàu cấm thì
sinh xôn xao.
Lô Lô ở Quý Châu (Fêtes 295) cũng hát trên núi. Có sự đấu tài hùng biện
và thi ca. Những cuộc hội này vẫn còn truyền tụng tuy đang trên đà biến mất.
Bên Java vợ chồng vẫn giao hợp trên ruộng (Civ I 191). Mã Lai
cũng có (Fêtes 228).
Dân Dao, Chi Lao, Lê, Bạch Mán, Thái được nói tới nhiều nhất. Tất nhiên Mán, Mèo, Thái, Thổ, Nùng ở Bắc Việt cũng
được nói tới, đủ biết biên cương của trống quân rất rộng, rộng bằng với cái
biên cương của nền văn hóa Viêm Việt.
Thứ đến có thể nói rằng khắp thế giới cổ
xưa đâu đâu cũng có thể tìm ra vết tích một thứ Trống Quân (Civ I 19) nhưng sau
đều biến mất hay biến thể trọn vẹn chỉ còn ở Viễn Đông là tồn tại. Điều
đó giải nghĩa được bằng sức mạnh của nền văn hóa Việt nho trước sức xâm lăng
của vương triều, nên đã xuất hiện sự kiện duy nhất trên đời là có sự hợp tác
giữa văn gia với chất gia, nhờ đó mà chúng ta sẽ tìm ra được chiều kích thâm
sâu của trống quân như sẽ bàn ở triệt sau.
Tuy hai bên sống chung nhưng cũng phải lột xác, trong đó Việt tộc phải
bỏ phần bị công kích hơn là hợp thân ngay trên cỏ, rồi thay vào bằng nhiều trò
chơi khác: đánh đu, bắt chạch, bắt dế, ném cầu.
Phần nổi nhất còn lại là hát
đối, là nơi nhận được nhiều sự hợp tác giữa Thôn dân và Kẻ sĩ. Vì phần hát đối
này được biểu lộ sâu xa nhất trong Lạc Việt nên chúng ta sẽ theo dõi cách
riêng.
Sở dĩ hát liên hệ mật thiết với Trống Quân
vì Trống Quân chính là đạo trời đất, hay nói cách khác là lễ hòa hợp trời đất
nên cần tiết nhịp như đất cùng trời, nhất là trời. Tiết trời thì như sáng với
tối, Xuân với Hạ, tiết đất thì như Đông với Nam, sông với núi. Vậy mà hát cũng
đầy nhịp, có thể nói đó chính là nhịp nghĩa là chưa cần đến lời thì nhạc đã
khởi sự có từ lúc có nhịp.
Vậy
ngôn ngữ nào giàu nhịp nhàng nhất cũng là giàu nhạc tính nhất, do đó hợp với
Trống Quân hơn cả. Thế mà trong các nhóm
Nam Man, Việt ngữ là một trong những tiếng giàu song ngữ nhất: thanh thanh, nhẹ
nhõm, vàng vọt, lung tung, lè phè, tà tà.
Tiếng thêm sau có khi để tăng gia phẩm tính như vàng hoe, đỏ đỏ hoặc để
bớt đi như tím tím, vàng vàng, đo đỏ.
Nhưng nhiều khi thêm vào coi như là để cho có vậy thôi. Rõ nhất là trong
vần iếc: ăn iếc, yêu iếc, học hiếc, chơi chiếc, hôn hiếc.
Nhờ những tiếng song trùng đó mà Việt
ngữ có một số nét đặc trưng như sau: Thứ
nhất phải kể đến nét co giãn làm cho nó
biến hóa vô cùng mà hình thức đầu tiên là nói lại. Riêng tiếng nhị âm mới nói lái được, đa âm như Tây hay độc âm
như Tàu đều không có nói lái.
Tây thì đã rõ: dù có tiếng hai âm nhưng không là bản chất của tiếng, nên
không nói lái được, thí dụ maison mà lái ra son/mai thì hết nghĩa; còn Việt mà
nói nhá cài ai cũng hiểu liền là cái nhà.
Tiếng Tàu không thể nói lái.
Lối ký âm trong tự điển kiểu Ngô Hoàn chiết đọc là Ngoan không phải là nói lái.
Tiếng Tàu đôi khi kể một hai tích nói lái thì quá cầu kỳ (xem Vân Đài Loại Ngữ
quyển VI, câu 42 có cho một thí dụ dài lê thê).
Có lẽ vì thế Tàu ưa dùng lối đồng âm. Con dơi Tàu đọc là phúc nên vẽ
hình dơi để chỉ chúc phúc, vẽ con hầu để chỉ hầu tước.
Tính
chất thứ hai là giàu nhạc tính đến
độ nói thông thường đã có nhạc tính rồi, như nhận xét của nhiều người ngoại
quốc rằng: nói tiếng Việt đã là ca hát. Có thể vì đó mà ta có những danh hiệu đồng
hóa được với ca hát chăng như Lạc và Dao, Lạc cùng với nhạc viết như nhau (nhạc
giả lạc dã) còn Dao thì là ca dao, có thể hiểu là tiếng hát của người Dao hay
Giao Chỉ. (Tàu viết Dao, Diêu, Giao khác nhau mà thấy chua là yao cả).
Tính
chất thứ ba là nói với thơ hầu như một
gieo vần ngay trong câu nói “ có mới nới cũ, vì cây giây quấn “ Vậy mà đó là thể lệ trong lúc hát Trống Quân.
Trong đó nói bằng thơ, hỏi bằng thơ,
thưa cũng phả bằng thơ. Thế mà hầu như không ai cho đó là chuyện khó. Hỏi
là thưa liền, ứng khẩu thành thơ. Đây là chỗ phải nói về vè. Vè là một lối ở giữa thơ và nói. Nói như thơ, thơ như nói, rất hợp cho Trống
Quân. Nên ghi ra đây như giả thuyết làm việc là vè do chữ ve mà ra, mà ve là ve gái: “ vẻ vè ve bắt vè con nhện “
. Và khi đã có sự ưng thuận thì bắt về.
Ai bắt về? Bắt về đâu? Thời xa xưa là
gái bắt trai. Người đàn bà Radhé hiện còn nói “ không đủ tiền đi bắt cái
chồng” . Sau này khi phụ hệ lên chân thì trai bắt gái. Xa xưa nữa là bắt cóc. Sau này bỏ tục bắt cóc thì vẫn còn một vài
nơi giữ một số nghi thức để giả đò bắt cóc. Theo đó câu truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh là bắt gái về núi.
Một
điều cần phải nhấn mạnh cho tâm thức hiện nay hay khinh thường những cái giản dị,
tưởng vè dễ quá nên không có gì cao sâu, sự thực là không thiếu cao sâu cả
trong thơ lẫn trong tiết nhịp. Thứ nhất về thơ thì vè là thơ không những trong
tiếng đôi mà luôn trong câu đôi, đó là lục bát so le làm nên nhịp câu. Cả nhịp
tỏ trong từng từ (6-8) lẫn nhịp ngầm trong cặp đôi từ (3-4). Còn
triết lý thì nó ẩn trong một nét lạ lùng là gieo vần trên lưng câu sau:
Trăm năm / trong cõi / người ta
Chữ
tài / chữ mệnh / khéo là / ghét nhau.
Triết
lý ẩn bên trong sự vụ là tinh thần Chí Trung Hòa của nền văn hóa Đông Nam :
theo cung ngũ hành thì đông số 3 chỉ trời, nam số 2 chỉ đất. Đất cũng chỉ bằng
các số chẵn khác như 4, 6, 8. Số 3 trời đi với 2 đất thì ra số 5 trong ngũ
hành. Số 3 đi với 4 thì ra bánh trời bánh đất.
Áp dụng nét song trùng vào hai số 3, 4
thì ra 6-8. Đó là số của thể thơ lục bát.
Nên
thể thơ này gọi được là thể thơ riêng của nước, y như bánh dầy, bánh chưng, hay
con số vài ba, bào thai của ngũ hành vậy. (1)
(1) Lần viết đầu tiên tôi móc nối câu
thơ với quẻ Chấn Li (xuất chấn hướng li). Chấn số 4 Li số 3 nhân đôi thành 8-6.
Nhưng sau xem lại sự móc nối đó không uyển chuyển bằng móc nối với ngũ hành.
Nói
theo tiên thiên thì là “ ba trời hai đất “ . Tức là bao hàm được tiết điệu vũ
trụ vừa trong hai câu thơ, vừa trong từng cặp đôi tiếng, vừa trong bước chân vũ
tức là tiết nhịp đầy ắp, nên câu thơ lục bát nói lên cái nhịp của trống quân
hơn hết, cũng là nhịp song trùng đã xuất hiện với dân tộc từ mãi xa xưa. Bởi đó khi đọc lên những tiếng đi đôi nó gây
cho ta cảm giác man mác nhiệm mầu là do cái tiết nhịp cũng như thể thơ và triết
lý tàng ẩn bên trong. Vì xuất hiện quá sớm nên khi Hoa tộc vào nước Tàu thì
không đổi nữa mà chỉ còn cách thích nghi.
Trước hết bằng đưa vào tiếng Tàu nhiều cặp song ngữ. Mở đầu Kinh Thi đã
thấy hai chữ quan quan (thư cưu) rồi
kể tiếp biết bao tiếng khác:
Đào
chi yêu yêu
Săn săn hề
Hoàng hoàng hề
Ân ân, điền điền.
Những
tiếng đôi đó có đầy trong Kinh Thi.
Ông Granet đã thu thập vào trong ba trang
lớn rồi nhấn mạnh rằng những cặp chữ đôi đó gợi là cái gì cụ thể như những bức
họa bằng lời: Comme de véritables peintures vocales (Socio 114).
Việc
thứ hai là đưa các Hư tự như các chữ tư,
hĩ, nhất là hề lên bậc từ chính
cho chiếm một chỗ trong câu thơ. Điều đó với tiếng Việt không cần, nên những
tiếng ngân nga (í, a, tình, tang, tính)
đứng ngoài thơ là vì tự nhạc đến thơ không gặp khó khăn nào như đã nói trên về
vè. Còn Tàu thì gặp khó khăn khi thơ muốn tách khỏi nhạc, nên phải dùng nhiều
hư tự. Sau này Ly Tao dùng hề thả dàn là do thơ đã gần tách hẳn khỏi nhạc để
sống độc lập, nên phải thêm tiếng hề để người đọc có cảm tưởng hát, mà đồng
thời cũng là chấm câu dùng lời thay cho dấu chấm. Chữ
Nho không dùng dấu chấm câu là do chịu ảnh hưởng quá nặng văn Trống Quân đó.
Còn
lại mấy cái khác như nhịp câu thì Tàu không có mấy thành công. Kinh Thi hầu hết
câu 4 chữ. Sau này chỉ có thơ ngũ ngôn, thất ngôn, vẫn gieo vần ở
cuối cả. Không có nhịp từng cặp từ. Sài Ung đã cố đưa thể tứ lục vào thơ Trung Hoa nhưng không được phổ biến, vì không
phải cơ cấu của tập thể mà là của một cá nhân. Thứ đến câu 4 quá ngắn không đủ
diễn tả tư tưởng cách đầy đủ, nên không chơi nổi vai trò tiếng nói thông thường
như thể lục bát. Ấy là chưa nói tới cái vụ câu 4, không theo lối gieo vần trên
lưng câu 6 nên thiếu chiếu sâu của triết lý.
Trên
đây là thử phác họa sơ sài ảnh hưởng Trống Quân trên ngôn ngữ và do đó trên tư
tưởng của Tàu, một nền tư tưởng xây trọn vẹn trên cặp đôi âm dương mà Âm Dương
chỉ là kiểu thức hóa các cặp đôi trong Trống quân.
Vậy tiếng Lạc Việt vốn đã là cặp đôi nên
có lý do chân chính để nói Lạc Việt là chủ chính của Trống Quân.
Câu chuyện Âu Cơ đưa 50 con lên núi, Lạc Long
Quân đưa 50 xuống biển với hai cái tết mồng 5 tháng 5 xuống nước nên có cuộc
đua thuyền, và tết trùng cửu là lên núi gọi là đăng cao để hái hoa vạn thọ để
chỉ thu thường, có thể giải nghĩa là phát xuất từ nguồn gốc xa xưa của trống
quân. Vì tổ chức đúng chỗ thì khi khỏi hát một bên từ núi xuống một bên từ sông
qua. Khi ca dao nói:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Thì
nền tảng siêu hình phải là cặp song trùng sơn xuyên nọ. Chính cặp đôi đó đã làm
nền cho 8 quẻ Kinh Dịch vì cả 8 có thể quy vào hai thực thể là núi và nước.
Núi: lửa, gíó, mẹ = cấn, li, tốn, khôn
Nước: sấm, ao, cha = khảm,
chấn, đoài, kiền
Khi
mẹ ông Bành Tổ giở nách tả sinh ra ba con, giở nách hữu sinh ra ba con nữa,
cũng như 6 anh em Hi Hòa: 3 bên tả 3 bên hữu đều phải quy chiếu vào cặp Nước
Non sơ nguyên nọ mới hiểu được mối liên hệ nằm ngầm. Còn khi bỏ huyền thoại mà
nói bóng thì ra:
Quốc tắc ỷ sơn xuyên
Sơn
băng xuyên kiệt
Vong
quốc chi trung dã (Sử Ký II 278).
Nước
dựa vào núi sông: khi núi lở sông cạn thì đó là điểm triệu báo hiệu nước sắp
mất, nên có niềm tin truyền đời như sau:
Sông Nghi sông Lạc cạn nhà Hạ mất,
Sông
Hà cạn nhà Thương tiêu.
Núi
Thái Sơn sụt là điềm nguy khốn.
Vì
sông núi chính là biểu tượng trời đất, cũng như 2 quẻ kiền khôn là hai trụ cột
cho nền đạo lý giữ nước. Đó là điều chúng ta phải hiểu khi “ đứng lên đáp lời
sông núi”. Đó cũng là đứng lên đáp tiếng gọi của Tiên Rồng, của con người tiểu
ngã đứng lên đáp tiếng gọi u linh của Nguyên Tính. Có thấy mối liên hệ sâu xa
đó mới nhận ra giá trị nghệ thuật ẩn trong thể thi lục bất trống quân. “ ( Hết
trích )
( Văn Lang vũ bộ: 6.- Trống Quân là một
cuộc lễ. Kim Định )
“
Sau khi đã biết tiến trình giao thoa của hai nền văn hóa nông du, sau khi đã
hiểu lý do vì sao du mục cấm đoán hay bôi xấu Trống Quân, sau khi đã hiểu sự
sống dẻo dai của Trống Quân xuyên qua nhiều thời đại trong một biên cương bát
ngát hẳn không còn ai phải ngạc nhiên nữa về câu nói Trống Quân vốn là một cuộc
lễ, trái lại cơ thể yên lòng tìm hiểu đến chỗ thâm sâu của nó. Ai cũng biết tế tự là rốn của tôn giáo, mà
tôn giáo là để kết hợp với Thượng Đế. Hiểu theo nghĩa cao siêu hơn hết Thượng
Đế là cái toàn thể u linh nên việc gì bất cứ nếu giúp con người kết hợp với
toàn thể u linh thì là tế tự. Vậy mà đó là ý chính của Trống Quân trong buổi sơ
nguyên.
Hát trống quân là để Hòa hợp với Trời bằng ca hát nhịp nhàng.
Thứ đến là Hòa
hợp với Tha nhân trong mối tình sâu thẳm hơn hết là hai người trai gái hợp
thân.
Ba là Ăn với
đất bằng Đình Đám vì thế phải nói không những là một lễ nhưng là lễ trọng
nhất, đầy đủ nhất. Nó trình bày một vũ trụ quan của “ hóa nhi đa hí lộng “ hay
một vũ trụ sinh sinh hóa hóa. Rồi một nhân sinh quan cũng theo nhịp vũ
trụ: Cá nhân có ăn uống, dòng tộc có hợp
thân giúp trời đất sinh hóa là sinh con và nuôi dưỡng giáo hóa. Vì thế đó là lễ
Phong Nhiêu. Có hai lối hiểu, một lối
bái vật là năm nào không có trống quân, không có hợp thân trên ruộng, năm đó
mất mùa. Còn một nữa thăng hoa theo lối tâm linh gọi là giúp trời đất hóa dục:
“ tán thiên địa chi hóa dục “.
Tức
nói lên sự đóng góp của con người vào cái tiết nhịp cao cả của vũ trụ để làm
nổi bật lên mối “ thiên nhơn tương dữ
“ đã được đổ khuôn vào thuyết Tam
tài. Đó là một vũ trụ quan thống nhất
bao gồm trọn vẹn cả kinh tế, chính trị, tôn giáo, ăn, chơi, hát, xướng.
Con
người thời nay quá quen với ý niệm nhị nguyên tách rời không thể chấp nhận được
sự đi đôi của du hí với tế tự, nhưng với quan niệm nhất nguyên lưỡng cực thì
chỉ có một toàn thể không có gì tục với linh, nhưng linh bao hàm tục y như nội
ngoại gắn bó vậy.
Cho nên chơi cũng là thành phần của lễ,
vì chơi biểu lộ bản chất con người hơn hết ở chỗ nó siêu thoát, không còn cầu
lợi nữa nhưng đã nhô đầu vào cõi an hành là đợt đầu tiên để kết hợp với toàn
thể u linh.
Cho
nên hiểu theo vũ trụ quan “ thiên địa
vạn vật nhất thể “ bất phân ly thì Trống Quân dù có đi kèm với những cuộc
du hí, ăn uống linh đình vẫn không mất chút nào tính chất cuộc tế lễ của nó
cả. Trái
lại càng biểu lộ đến cao độ nền minh triết thâm sâu vì đã thỏa đáp được cả ba
nhu yếu nền móng của con người: “ Thực, sắc, diện thiên tính dã “.
Xưa
nay lễ hay bị quan niệm quá cao khi chỉ hiểu là cuộc kết hợp với Thượng Đế trừu
tượng ngự trên cao xanh. Vậy là lệch lạc vì mới có hàng dọc lý trí khô cằn.
Hoặc lại hiểu theo kiểu tả truyện “ lễ là để điều chỉnh việc dân “ . Vậy là mới
có hàng ngang. Lễ mà đầy đủ phải có cả ngang cả dọc: cả trời, cả đất, người đều tham
dự. Nói khác là cả ý, tình, chí phải được thỏa thuê mới đúng câu: sử thần nhơn
bách vật vô bất đắc kì cực (làm cho cả thần, cả người, cả vạn vật đều được thỏa
thích cùng cực). Fêtes 189.
Câu
này nói về lễ Bát Chá, là lễ bế mạc mùa gặt mà sau này đổi ra lễ tất niên,
trong đó có cuộc đại ẩm là nét còn ghi lại dấu trong Trống Quân, khiến mọi
người được no say nhảy múa như điên (quốc chi nhơn giai nhược cuồng) điều đó bị
người theo thuyết thanh giáo khắc nghị khinh chê, nhưng thực ra đó mới là bản
chất của lễ, cũng gọi là tiết, ta đọc là tết.
Lễ
hay tết phải có một cái gì qua mức thường để biểu lộ sự thoát khỏi quy ước
thường nhật; đó là một yếu tố quan trọng của lễ. Toute fête est un excès là câu
nói mà con người thời nay không hiểu nổi nữa vì bị đè nặng dưới ảnh hưởng của
thanh giáo. Còn ở thời sơ nguyên khi
chưa bị những quy ước trái khoáy của du mục bẻ quặt thì Trống Quân là một cuộc
tế lễ toàn vẹn có ăn uống, hát xướng, giao hoan và do đó nó gây âm vang sâu
thẳm vào lòng con người đến độ chỉ huy cuộc sống trong cả năm, từ ý nghĩ, việc
làm, lời nói, nó gây sức mạnh đến nỗi mọi lời khác đã qua đi nhưng những lời
hát trong trống quân được giữ lại, như ca dao tục ngữ hay nếu đã có văn học thì
như Kinh Điển.
Kinh Thi chính là kết nạp những bài đã
hát trong Trống Quân (Fêtes 224). Còn trong Việt thì Trống Quân kết tinh vào
Trống Đồng. Trống Đồng không chi khác hơn là tinh tuý Trống Quân, nơi Âu Cơ
tiên đang lao xuống miệng rồng là bố Lạc.
Đây
là chỗ cần đặt câu hỏi tại sao lại nói Trống Quân. Có nên viết là Chống Quân
với ý nghĩa hai đạo quân chống nhau chăng: opposer toupes? (như ông Nguyễn Văn
Huyên đề nghị trong Chants alternés p.29). Thưa viết chống không hẳn sai nhưng
muốn toàn vẹn phải nói Trống Quân với ý nghĩa để Trống. Y như cái trống trời trống đất phân hai bè
nam nữ cũng để trống mặt. Và sau này khi
đã làm thành Trống , Trống cũng để trống một mặt gọi là Trống Bộc (Huyên 28)
tức là trống của dân Bách Bộc (trên Bộc trong dâu) cũng như Trống Đồng cũng
phải để một mặt trống mới đúng tên là Trống, là “ thần cổ đánh ở kinh đô Việt
mà tiếng ngân mãi tới Lạc Dương “. Đó
là để nói lên lối thông giao với toàn thể u linh vốn là vô biên là cái không
thể diễn tả mà chỉ biểu lộ bằng nhạc, bằng sự im lặng, bằng trống rỗng tâm hồn.
Vì
lẽ đó cái Trống phải để trống một đầu, sau này người ta mất ý thức nên bịt luôn
hai đầu, mà vẫn cứ kêu là trống, là đánh trống, mà thực ra là đánh bịt, đánh
bùng, đánh lùng bùng vòng ngoài đối kháng làm ra hai bè chống nhau mà không
biết đến vòng trong sinh sinh nội tại.
Như thế là sa đọa tự nhất nguyên lưỡng
cực đốc ra nhị nguyên bịt kín: chọn một bỏ một theo kiểu biện chứng, ý hệ ,
không còn hợp với dịch lý kết hậu bằng quẻ vi tế, tức để trống đầu cuối cho nó
mở sang cõi vô biên. Y như hội họa mà đi
đến cùng kỳ cực phải như Mã Viễn “ vẽ bằng không vẽ “ tức biết
phối hợp cảnh vật với quãng trống lúc ấy đóng vai vô biên. Chính sự hiện diện
của quãng trống kể như một thực tại vô biên đó đem lại cho bức họa nét trầm
hùng bi tráng không tìm thấy ở nền hội họa nào khác như René Grousset nói về
bức họa “ chiếc thuyền câu trên ao thu “ của Mã Viễn “ une des oeuvres les plus
poignantes de la peinture de tous les temps “
(La Chine et son art p.177, 186) vì nó cũng nằm trong một nền triết lý
của quẻ vi tế tức của cái trống, cột trụ của Trống Quân. “( Hết trích )
( Triết lý cái Ðình: Kim Ðịnh )
“
Điều đặc chú trong chương này là địa vực một số lễ được coi như ấn tích của tác
giả văn minh. Nếu văn minh là nông nghiệp mà nội dung các lễ cũng là nông
nghiệp thì ở đâu mừng lễ đó tức đấy là chủ khởi sáng ra nền văn minh. Tính chất
các lễ nông nghiệp là đi sát thiên nhiên như mùa gặt mùa cấy, hoặc những hiện
tượng thiên nhiên như ngày trùng ngũ mừng mặt trời vào cung ngọ. Nói chung là
các lễ này hướng nhiều đến sự sống, và gọi là Tết:
Tết Nguyên đán
Tết
Đoan ngọ
Tết
Trung thu.
Có
lẽ ý nghĩa chữ Tết là một lối đọc chữ Tiết, hiểu là tiết nhịp uyên nguyên mà
mọi tác động đều nhịp theo thì mới đạt cảnh thái hòa “ phác nhi giai trúng. Tiết vị chi hóa “ (T. D ).
Theo
Tiết là những nhịp sống cao độ mà mọi cơ năng đều cố vươn lên cực điểm để cùng
nhịp theo với tiết điệu thiên nhiên. Vì thế mà có những cuộc vui, tưng bừng ăn
uống đình đám kèm theo nói lên sự sống tràn ngập. Văn minh nông nghiệp đặt nền trên sinh sinh
nên chú ý nhiều về sống hơn về chết như lễ thanh minh, lễ các vong hồn là những
lễ không được chú ý lắm và phần nhiều mang nặng ảnh hưởng Phật giáo.
Chúng ta chú ý đến ba cái Tết (Lễ sống). Tìm hiểu nơi phát xuất của cái Tết với những biến
dạng của nó xuyên qua các đời và hiện nay còn những đâu giữ nhiều nhất v.v, thì
đấy là việc dài hơi của một nhóm nghiên cứu và thuộc về văn học xã hội hay cổ
tục học. Ở đây chúng tôi không bàn kỹ về
các lễ mà chỉ nhằm ghi lại ít nét thuộc địa vực phát xuất hoặc duy trì. (1)
(1) Trong việc này chúng tôi có nhờ đến
tài liệu của một số học giả trong đó phải kể tới quyển Chinese Festivals của
giáo sư Wolfram Eberhard (Henry Schuman 1952 N.Y). Tác giả đã tốt nghiệp về
triết học, xã hội và Nho học năm 1931. Năm 1933 được hội Baessler cấp học bổng
cho sang Tàu nghiên cứu về cổ tục học nước này. Luôn thể ông có dạy Đại học Bắc
Kinh cũng như Bắc Bình. Nhờ nghiên cứu tại chỗ nên sách của ông là những tài
liệu đáng tin cậy có thể dùng làm tiêu điểm đầu tiên cho những ai muốn đi sâu
vào đề tài.
Trước
hết là Tết. Cái Tết của ta rất lớn lao như chưa có đâu ăn Tết trọng thể bằng:
kéo dài đến cả hai tháng. Tháng chạp sửa soạn còn tháng giêng thì ăn tết ở nhà
và tới nay tuy đời sống bắt phải giản lược nó vào những chiều kích bé nhỏ,
nhưng so với các nơi khác Tết vẫn còn to hơn, lâu hơn nhiều lắm. Có một điểm
mới xuất hiện là bên Tàu, Đài Loan, Nhật đã bãi bỏ Tết để ăn tết Tây, trái lại
bên Việt Nam mặc dù ở vào tình trạng thuộc địa thì lẽ ra phải bỏ Tết trước hết,
vậy mà vẫn giữ Tết thì có nên xem đó như một dấu chỉ ngầm rằng xưa kia tổ tiên
Việt đã đặt ra cái Tết? Đấy chỉ là một sự gợi ý mời các nhà nghiên cứu về sau,
ở đây chúng tôi chỉ tìm hiểu ít nhiều nét riêng biệt của ba ngày tết.
Điều
nhận xét đầu tiên nằm trong chữ “ tháng giêng ăn Tết ở nhà “. Đây là nét đặc trưng, bởi vì Tết là lễ trọng
thể nhất cũng như lâu dài nhất trong năm mà lại không mừng ở đền chùa cũng như
không ở những công sở mà lại mừng ngay ở nhà thì điều đó biểu lộ gia đình là
nền móng của xã hội, mà không có gì khác thay thế được kể cả tôn giáo lẫn chính
quyền. Về phía chính quyền thì đã có mấy
lễ chung rồi như hai lê “ tế Đế, tế Thường “ hay một hai kỷ niệm gì đó gọi là
Quốc khánh thì nói chung dân vẫn tỏ ra hờ hững, họ để chú ý vào đó may ra được
một phần mười, còn tất cả dốc trọn vào cái Tết phần lớn nằm trong khuôn khổ gia
đình. Vì thế những chế độ ghét gia đình như cộng sản đều cố gắng quốc gia hóa
cái Tết như thí dụ cho nghỉ ngày mồng một còn mồng hai thì dân phải thi đua
trồng cây cho nhà nước. Đó là dùng võ lực để tước đoạt gia đình. Phía các tôn
giáo cũng có tính cách kéo Tết ra khỏi gia đình ít là một phần. Không thành
công vì chỉ có thể kéo ra khỏi gia đình để đem đến chỗ tinh thần hơn. Nhưng theo quan niệm Việt Nho thì tinh thần
đã lại nằm sẵn ngay trong nhà rồi nên không có gì hơn mà phải ra ngoài nếu có
ra chăng thì cũng là rất chóng vánh: đi lạy Phật, hay hái xem một lát rồi về “
ăn Tết ở nhà “.
Điều biểu lộ tinh thần gia đình thứ hai là tục
Táo quân. Ngày 23 tháng Chạp ông Táo về trời lập bô về các việc đã xảy ra trong
năm qua có liên hệ đến nước đến gia đình. Đấy là một tục lệ coi có vẻ dị đoan
nhưng biểu lộ niềm tin vào Hoàng Thiên Thượng Đế của các dân Viễn Đông. Đêm 23
tháng chạp các gia đình thường tiễn ông Táo một bữa cơm thịnh soạn những món ăn
toàn là đồ ngọt, cốt để cho khi lập bô ông dùng những lời lẽ ngọt ngào. Vì thế
mâm chất bánh ngọt, mật, lại thêm một xị mật ong để bôi mép ông Táo! Lễ này do
các ông phụ trách, còn các bà lo bếp núc không tham dự. Nhân dịp này ông
Eberhard nhận xét về mối liên hệ giữa người và thần trong xã hội Viễn Đông. Tuy
Thần có quyền phép hơn nhưng đó chỉ là sự khác về cấp bậc, chứ không về giống
loại. Thần cũng chỉ là những công chức, một thứ quan lại, coi một việc nào đó
mà nếu không chu toàn nhiệm vụ thì phải đổi đi. Thí dụ khi trời đại hạn dân đã
cúng tế đàng hoàng mà thần vẫn không chịu làm mưa thì rất có thể tượng thần sẽ
bị đem ra phơi nắng để nếm mùi đại hạn là gì. Cũng có thể bị quăng vào đống
rác, rồi dân làng viết đơn lên Thượng Đế xin sai xuống một ông thần khác đắc
lực hơn. Học giả Eberhard thêm rằng: tuy người Âu Tây chúng ta coi là buồn cười
nhưng theo các nhà tâm lý thì lối quan niệm bình đẳng với thần thánh kiểu này
không gây ra cảm tình tội lỗi hay ý niệm bị lệ thuộc quá đáng vào quyền năng
thần thánh, đó là điều có sức cứu gỡ tâm hồn khỏi nhiều sự căng thẳng thần kinh
do sự dồn nén, sợ sệt thần thánh, nên giúp cho con người cảm thức được quyền
hạn riêng của mình. Tuy biết mình là một vật nhỏ không có nhiều quyền năng
nhưng có một số quyền lợi bất khả sang nhượng, và hai bên đều có ăn sang ăn giả
chứ không một chiều như bên Âu (Festivals 22). Đối với tục lệ táo quân ta có
thể coi như việc thanh toán sổ sách trong năm sắp qua đặng có thể bước vào năm
mới với tâm hồn thanh thản.
Ngày
mồng một đầu năm là ngày trọng đại hơn cả, cũng là ngày nói lên tính chất gia
đình đầy đủ hơn hết vì đấy không còn phải là gia đình nhỏ hẹp nữa nhưng là đại
gia đình ăn về trước đến các tổ tiên đã qua cũng được thỉnh về để cùng ăn tết
với con cháu. Còn về hàng ngang nghĩa là những người đang sống thì dù ở xa mấy
mặc lòng trong mấy ngày tết gia đình cũng cố tụ họp để cùng chung vui. Bởi vậy
có thể nói ngày mồng một Tết là tuyệt độ cao của đời sống gia đình trong đó mọi
người đều được nhắc đến nhờ có tục lệ đọc và ghi gia phả. Ông Eberhard có nhận
xét về việc ghi gia phả trong dịp này như sau: “ Bất kỳ đứa con nào sinh ra dù
là chết yểu cũng được ghi chú tên tuổi phần số để lại các thế hệ về sau, nhờ
đấy ai nấy đều có một địa vị trong cái chuỗi dài bất tận của các thế hệ. Thật
là một điều đáng suy nghĩ trước sự đổ vỡ của gia đình hiện nay, các nhà tâm lý
nói đi nói lại rằng rất nhiều những khó khăn nội tâm của chúng ta như bệnh thần
kinh
là hậu quả những cảm thức bất an ninh cách sâu xa, bởi ngay từ trong
những ngày bé bỏng đứa trẻ đã cảm thấy mình trơ trọi trên đời: vì sống trong
một nhóm tuy là gia đình nhưng thực chất chỉ là một đơn vị kinh tế. Trái lại ở
đây ai nấy đều có một địa vị ngay từ lúc bé thơ và truyền lại mãi về sau. Nó
vẫn là một phần trong công thể, mặc dù ngày mai có xảy ra sao đi nữa nó vẫn là
một phần tử nên vẫn còn được tham dự trong buổi tiệc đầu năm này. “; “ Our psychologist tell us over and over that
many of our inner difficulties, our neuroses, are the result of a deep-seated
feeling of insecurity which begins in the early days of childhood when the
child feels itself alone in this world, living in a group of people called “ family “ but representing no more than an economic
unit. Here in this Chinese framework every member has his definite position.
Has the security from the early day of his birth: each individual knows that he
will have place in this record over his lifetime and in all future time. He is
a member of a community, come what may, and will remain a member even after his
death. He will take part, even then, in this sacrifice on New Year's.
(Festivals 43).
Tôi
biên lại cả bản văn để độc giả có thể đọc trong chính văn cảm nghĩ của một tác
giả ngoại quốc về tính chất gia đình của ngày tết, đặng nhìn ra những điểm rất
sâu xa nhưng vì chúng ta ở trong cuộc quá quen nên không nhận thấy được, nên
cần nhớ đến những suy nghĩ của người ngoại cuộc xem bằng con mắt lạ lẫm tra hỏi
thì cũng là điều hay.
Trong
các trò vui công cộng dịp tết thì có tục múa lân. Trong lúc múa người ta vừa
múa vừa ca những bài hát Phương Nam
“ leader of the group sang the Southern song “
(Festivals 15). Tôi ghi điểm này vì coi là kiện chứng cho tính chất
phương Nam
của ngày Tết, tức là chủ tịch thuộc Bách Việt rất ưa ca vũ. Nhưng từ năm
200-100 t.c.n xẩy ra một sự đứt khúc rõ rệt gây nên do sự thắng thế của Hán Nho
tức một thứ Nho đã bị trộn quá nhiều chất thanh giáo Bắc phương nên từ đấy ca
vũ bị trụt xuống dần cho tới độ “ xướng ca vô loài “, và dân ca chỉ còn sống
bám víu vào một số lễ lạy mà thôi. Bởi vậy cần phải có con mắt tinh tế nhìn
những cái bé nhỏ để tìm ra dấu vết của nguồn gốc chúng ta.
Tết
Đoan Ngọ đã được bàn tới trong Việt Lý bài Âu Cơ tuý, ở đây chỉ ghi nhận thêm
ít điểm minh chứng đó là Tết của Việt tộc.
Điểm trước hết thuốc màu dùng trong Tết này là sắc đỏ để chỉ sự sáng
nóng, mặt trời, mùa hạ, sự sống
vì thế đấy là lễ sống thứ hai gọi là lễ “ cầu
may “ hay lễ của sự sống thuộc phương
Nam “ double fifth is a Southern festival, lucky festival or festival of the living”
. (Festivals 70-71). Vì thế Tết này ít có ở phía Bắc, ngược lại được mừng trọng
thể ở phía Nam
nước Tàu, tức trong miền của Bắc Việt. Một trong những trò vui của Tết là cuộc
đua thuyền trong đó có hai dấu nói lên tính chất phương Nam : một là mỗi thuyền gồm 50
người. Con số 5 vừa nói lên ngày mồng 5 tháng 5 mà đồng thời cũng nói đến “ 50
con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển” . Thứ hai là dùng cồng để đánh
hiệu đua thuyền. Cồng đi với bà nên là dấu chỉ thuộc Viêm Việt. Tuy nhiên những
yếu tố này dễ mất ý thức nên sau lẫn lộn. Nhất là vì Tết này bị vương triều cấm
đoán ít ra hạn chế thí dụ việc đua thuyền, vì khi đua thuyền người ta hát những
bài của Khuất Nguyên rất dễ gợi lòng ái quốc, nhưng còn vì một tục lệ nguy hiểm
cho tính mạng Hán tộc. Không hiểu tục thi bơi thuyền có từ lúc nào, nhưng về
sau nó kéo theo sự kỷ niệm Khuất Nguyên là người Nam Man thuộc nhóm Thái hoặc
Dao tức Bách Việt (Festivals 75) vì không được vương triều thâu nhận những bản
điều trần mà tự vẫn, thì đấy là một mối thù của dân gian đối với vương triều
của Hán tộc, và vì thế có tục bắt một người Hán để đến ngày đua thuyền thì tế
đặng báo thù cho Khuất Nguyên. Đấy là tục lệ nguy hiểm cho Hán tộc nhất là
những người có bộ râu dài đẹp.
Dân
Nam Man bắt có họ đưa về nuối nấng đàng hoàng để đến ngày trùng ngũ đưa ra dìm
sông tế Khuất Nguyên. Về sau vì có nhiều biến đổi, nhiều hiện tượng dị đoan len
lỏi vào như việc thả cơm cháo xuống nuôi hồn Khuất Nguyên v.v
(Festivals 76).
Nhưng ý tưởng cầu mưa để đặng mùa màng
phong đãng luôn đi kèm lễ, nên ta vẫn có thể nhìn ra được gốc gác của nó thuộc
nông nghiệp và từ phương Nam
phát xuất.
Trung
Thu là Tết sống thứ ba hoàn toàn có tính cách đàn bà. Trước hết đây là lễ đặc
biệt thuộc mặt trăng. Vì thế không mừng đúng vào ngày thu phân là 21 tháng 9
dương lịch, mà lại mừng vào ngày 15 tháng 8, thường là cuối tháng 9. Cứ kể ra
thì lễ nào cũng gọi được là thuộc mặt trăng vì theo lịch Viễn Đông thì tháng
tính theo mặt trăng biểu thị nguyên lý mẹ. Nhưng lễ này còn có thêm hai nét nữa
nói lên nguyên lý mẹ là mừng về đêm, nên có tính chất “ lãng mạn “ nhất (it is undoubtedly the most romantic.
Festivals 79). Hai nữa là việc tế tự thì do các bà chủ sự. Tai sao lại thuộc
các bà? Lý do sâu xa là vì mùa gặt là công các bà. Thời sơ nguyên đàn ông đi
săn, đàn bà ở nhà nghĩ ra việc gieo, mà đã gieo thì rồi có gặt, cho nên mọi tết
đều có tính chất mẹ hơn cha. Nhưng vì hậu quả của gặt kéo dài hơn nên có lẽ vì
vậy mà tết Trung Thu là một tết mừng mùa gặt, mùa tích trữ (thu tàng) thóc lúa
nơi buồng các bà, nên là lễ thuộc các bà hơn và vì thế cũng phát xuất bởi vùng
Viêm Việt nhất là Phúc Kiến, theo như các sách cổ nói: old texts tell us that
the mid autumn festival originated in Fukien Province. (Festivals 100). Không hiểu vì từ lúc nào đó thì có một lễ
khác gọi là lễ trùng cửu, tuy sau này sáp nhập với Tết Trung Thu nhưng ban đầu
là hai Tết khác nhau. Tết Trung Thu hoàn toàn vui vẻ còn trùng cửu thì có mang
sắc thái lo âu, xem ra là riêng của dân Việt một dân có nhiều điểm giống với
các dân Thái. The festival of “ Double
Nine “ belonged to an East Chinese
ethnic group, the Yueh. These Yueh were in many respects similar to the Tai.
(Festivals 111) Có lẽ vì sự bành trướng của du mục Bắc Phương nên nhiều lần
Viêm Việt phải bỏ tất cả để tháo chạy nên lễ trùng cửu tỏ ý lo âu chăng. Ngoài những lý lẽ trên thì ta còn thêm được
một chiều kích siêu hình của tết Trung Thu, tức là sự trùng hợp với các số Lạc
Thư mà Lạc Thư biểu thị một nền triết đạt quan như đã trình bày trong quyển
Dịch Kinh Linh Thể (bài cuối). Thế mà Lạc Thư có những con số hợp với Tết Trung
Thu. Vì Lạc Thư gồm 8 lô với một trung cung, và cộng chiều nào cũng được 15,
như vậy là có sự trùng hợp với ý cùng của Tết là ăn mừng mùa màng thu gặt thì
Lạc Thư cũng là triết đạt quan thâu thái, vì là biểu hiện nguyên lý mẹ đối với
nhà Hà Đồ biểu hiện nguyên lý cha. “
( Hết
trích )
( Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc: 10.-
Pho tượng đẹp nhất . . . Kim Định )
“ Quốc hồn là cái hồn thiêng của đất
nước, cái tinh hoa văn hóa dân tộc, ta có thể gọi bằng tiếng mới là cái triết
lý của tiên tổ chúng ta. Quốc tuý trái
lại là cái gì vật chất thường gắn liền với ăn với uống, có tính cách tinh vi,
có khả năng làm cho say, say tuý luý như quen nói về thuốc lào, rượu đế, một số
món ăn đặc biệt tinh xảo.
Hai
điểm trên nếu để rời thì nói được là đâu cũng có cách nọ hoặc cách kia, nhưng
khi đem hai cặp thành ngữ đó ghép vào nhau thì đấy là một nét đặc trưng nghĩa
là không đâu có. Nét đặc trưng nói lên
hai điều:
Thứ
nhất là đặt đạo vào ngay những truyện thường nhật như ăn uống là điều khác với
nhiều nơi, thí dụ Tây Âu và Hy Lạp thì họ đặt trên lý giới rất xa cõi người ta:
ăn ra ăn, triết ra triết. Họ nói ăn đã rồi mới triết lý sau: prius manducare
deinde philosophari. Với ta thì ăn đã là triết. Triết ngay trong việc ăn.
Điểm
hai là nói lên tác động con người, chính con người giữ một vai chủ động ngay từ
trong việc đạo, việc linh thiêng.
Đó là điều đặc biệt của triết lý nhân
chủ vốn đề cao tác động con người, đưa lên tới bậc ngang hàng cùng trời đất như
bánh dầy chỉ trời chỉ đạo đó là quốc hồn, bánh chưng chi đất là quốc tuý: còn
phần việc của con người là ăn. Nếu ta để tâm suy nghĩ sẽ thấy việc của con
người cao cả xiết bao: đó là ăn trời ăn đất, hoặc nói theo Kinh Dịch là vui với
trời, ăn với đất (lạc hồ thiên, thực hồ địa).
Chính
vì nét đặc trưng đó mà tiếng Việt có những cặp danh từ kỳ lạ như ăn học, ăn
chơi, ăn nói, ăn làm, ăn hỏi, ăn cưới, ăn lời, nếu không thì ăn đòn v.v, tức là
ăn đi với những việc không phải ăn.
Vậy thì tiếng ăn ở đây nó như cái khung
của đạo lý: thay vì nói phương pháp
tôn chỉ của học của chơi thì ta nói ăn học, ăn chơi. Là vì đạo lý nào muốn có
thực chất thì phải tiêu hóa, nên sau mỗi cái ăn đều có một đạo lý, thường được
biểu lộ bằng một câu truyện và những âm vang như tục ngữ thói tục. Thí dụ cụ thể là ăn trầu. Ăn trầu là một lối
ăn riêng biệt rất công phu, kéo dài gọi là nhai. Nhai thì Mỹ cũng có, Mỹ Việt
đều nhai: Mỹ nhai chewing gum, Việt nhai trầu. Nhưng đàng sau cái nhai của Mỹ
không còn gì ngoại giả cao su. Ngược lại với miếng trầu thì đàng sau còn lắm
điều hay.
Điều
thứ nhất là có say: có tuý luý, có
đỏ mặt và nóng ran người. Điều hay thứ
hai là có truyện trầu cau. Đây là
truyện hay ở chỗ biểu thị cao sâu của nó, cây cau mọc thẳng lên tượng trời, hòn
đá vôi nằm ngang dưới gốc tượng đất, còn người là cô gái trở thành cây leo quấn
quýt lấy cả hai cây và đá. Vì đó có bản gọi tên cô là Liên tức đóng vai liên
lạc giữa trời cùng đất. Quốc tuý được
biểu thị bằng nhai đi nhai lại cho trầu cau hòa hợp vào nhau để sinh ra một
chất mới là nước trầu đỏ thắm để chỉ quốc hồn quốc tuý hòa hợp và như vậy rất
tiện để chỉ việc hôn phối giữa nam nữ, hầu sinh ra con cái nối dòng, do vậy mà
miếng trầu trở nên đầu câu truyện với vô
số phong dao tục ngữ đi kèm:
Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu
bọc khăn trắng đãi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa
tâm tình (tuý đấy)
Ăn
cho nó thỏa sự mình với ta (hồn đấy)
Trầu
này trầu quế trầu hồi
Trâu
loan trầu phượng trầu tôi trầu mình
Trầu
này trầu tính trầu tình
Trầu
nhân trầu nghĩa trầu mình lấy ta.
Trầu
này têm tối hôm qua
Trầu
cha trầu mẹ đem ra cho chàng
Trầu
này không phải trầu hàng
Không
bùa không thuốc sao chàng không ăn?
Hay
là chê khó chê khăn
Xin
chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
Còn
biết bao nhiêu nữa nhưng vậy tạm đủ để thấy sự dị biệt giữa cái nhai của Mỹ và
cái nhai của tiền nhân ta. Nhai chewing gum thì chỉ có nhai đàng sau không còn
gì; còn nhai trầu thì đàng sau có câu truyện trầu cau đầy ứ ý nghĩa với vô số
cái ăn đàng sau: ăn hỏi, ăn cưới, rồi ăn ở, ăn nằm.
Sau ăn trầu thì nói đến ăn Tết ta còn thấy sự dị biệt lớn lao
hơn nhiều. Trước hết Tây đâu có nói ăn
Tết, họ nói célébrate gì đó, nghĩa là mừng.
Thí
dụ Tết Tây chỉ có một ngày là hết, hôm sau là chấm tròn đi job. Tết ta thì có đến ba ngày, ta quen nói “ ba
ngày Tết “, đã vậy đó chỉ là chính cốt chứ phải kể cả sửa soạn và cái đuôi thì
cả hàng tháng. Đến nỗi phong dao có câu:
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng
hai cờ bạc tháng ba hội hè.
Đấy
là cái khác nhau bên ngoài, bây giờ tìm vào đến nội dung ta mới thấy một sự
khác biệt sâu xa lạ lùng.
Ta thấy Tết chính là Tiết, tức là tiết
nhịp hòa âm thống nhất. Thống nhất chi? Thưa là trời đất người, cả ba phải hòa
nhịp. Vì thế mà Tết phải có ba ngày và cả ba đều là căn bản,
vì thiếu ba thì làm sao có hòa hợp, có thống nhất. Trời quá cao đất quá thấp,
phải có người làm trung gian mới có thái hòa.
Rồi
để cho sự thống nhất có nội dung trung thực thì Tết phải mừng vào lúc trời hết
lạnh, lúc đất nở hoa lá, con người có thể ra đồng trồng gieo.
Vậy
nên đó phải là mùa Xuân lúc khí trời ấm áp, thảo mộc nảy mầm lá hoa, người có
thể đi ra để khởi đầu quá trình gieo gặt. Đó là một cảnh thái hòa được diễn
cách cụ thể trong mùa Xuân. Ta quen nói: “ Ngày xuân con én đưa thoi “ là
vậy. Phải là mùa Xuân én mới đưa thoi
được chứ ngày Đông mà rở thoi ra thì teo gấp, còn đâu nữa mà đưa, mà thoi không
đưa thì làm gì có hòa hợp. Tết Tây
không bao hàm triết nên họ đặt Tết vào lúc thịnh đông: lúc trời rét căm căm,
đất đầy tuyết, người phải rúc trong nhà. Như vậy là chỉ nghĩ đến Trời mà không
kể đến Đất đến Người, nên Tết chỉ có một ngày, nếu nói ngặt thì Tây chỉ có một
ngày đầu năm mà không có Tết. Vì Tết là tiết là nhịp mà có nhịp với ai đâu: độc
tấu à, chỉ có Trời độc tấu. Đất với Người không tham dự, làm sao mà có truyện
Tết như ta.
Truyện
Tết kể rằng vua Hùng Vương thứ ba muốn
truyền ngôi cho con, nhưng không truyền cho bất cứ con nào mà phải là con
có tài có đức, vậy để tìm ra người đó thì vua đặt ra cuộc thi gia chánh kỳ lạ:
hễ con nào làm được món ăn vừa ý vua hơn cả thì sẽ truyền ngôi cho. Các con vua
liền bổ đi khắp ngả để tìm của ngon vật lạ người lên rừng, kẻ xuống bể, kẻ đi đông người sang tây đưa về
thôi thì đủ thứ: sơn nhung, hải vị, giò lụa, nem công, chả phượng, chả quế, hot
dog, hamburger không thiếu thứ gì. Trong khi đó công tử thứ 9 tên là Lang Liêu
nhà nghèo không có phương tiện chuyên chở nên chẳng tìm ra được cái gì xa lạ,
nên buồn rầu cả đêm trằn trọc mất ngủ. May thay đang lúc bối rối thì có thần
hiện đến mách nước rằng khỏi đi đâu xa xôi hãy xuống ngay bếp lấy gạo nếp ra
làm một bánh vuông, và một bánh tròn, rồi chồng lên nhau mà dâng vua cha. Lang
Liêu liền làm theo đó. Đến ngày thi thì được vua cha chấm nhất với ưu hạng khen
rằng ăn không những đã ngon mà ý nghĩa thì hàm súc vô cùng, vì bánh chưng vuông
chỉ đất, bánh dầy tròn chỉ trời. Vậy đó là đạo người rồi còn chi, vì người được
định nghĩa là “ nhân giả kỳ thiên địa chi đức “
mà. Thực là không thể sâu xa hơn được nữa. Thế là vua truyền ngôi cho
Lang Liêu và cải hiệu là Tiết Liệu nghĩa là biết lo liệu cho cuộc sống hợp với
tiết trời cùng đất. Và từ đấy thì gọi ngày đầu Xuân là Tết và cũng từ đấy hễ đến Tết thì
tiên tổ ta gói bánh dầy bánh chưng và gọi là bánh vua Tiết Liệu, với ý nghĩa là
phải xếp đặt cuộc sống cho hợp với đạo trời đạo đất.
Đấy là câu truyện Tết. Còn âm vang của câu truyện là sự thái hòa
trước là giữa Trời, Người với Đất sau là giữa người với người. Về Trời với Đất
thì có những nghi lễ nhớ trời đất như múa lân, trời thì có Rồng với ông địa đi
kèm.
Còn với người thì kỹ hơn. Với thế
hệ đã qua thì có lễ Gia tiên, với những nghi thức tưởng nhớ đến ông bà. Với
người đang sống thì thăm hỏi quà cáp, những người họ hàng ở xa cũng cố trở về
quê hương ăn Tết để gặp lại và thăm hỏi bà con.
Ấy là chưa kể đến thể chế bình sản, xóa bỏ sự phân chia giai cấp giữa kẻ có với người
không, giữa chủ với nô, để ai ai cũng là người tự do, và nếu vì kế sinh nhai cả
năm vất vả thì nhờ vào “ ba ngày tết “
mà nghỉ ngơi ít bữa để có dịp ngửa mặt nhìn trời, cúi xuống nhìn đất tức
sống an vui trong mấy ngày: tạm xếp sang bên mọi bận rộn, lo âu thường nhật để
lòng phơi phới vui Xuân: vì thế ngày Tết không ai dám đòi nợ, hay trách mắng,
trái lại ai nấy cố vui tươi mời gọi, chào đón, đi đâu cũng có ăn với những nét
mặt hân hoan cười nói làm ta dễ cảm tưởng đó là quang cảnh lân bàng với bồng
lai tiên cảnh, vì là lúc người nghèo tới đâu cũng được hưởng cảnh dư dật phong
nhiêu tràn ngập của ngon vật lạ. Đó lẽ
ra phải là cuộc sống thường xuyên của con người nghĩa là con người lẽ ra phải
được sống thảnh thơi như những con chim, làm ít chơi nhiều, tung tăng với ca
xướng và vũ điệu như được ghi tạc trên mặt trồng đồng Ngọc Lũ.
Chính đó là lý tưởng của triết lý an vi,
một nền triết nhằm hạnh phúc của mọi người như lý tưởng, như là cứu cánh.
Và
quả thực trong dĩ vãng lý tưởng đã hiện thực được phần nào tuy còn xa mới hoàn
bị, nhưng so với những nơi khác thì quả không hổ mặt xưng là nước có văn hiến
sống theo lý tưởng Tết là hoà hợp giữa Trời, Đất, Người. Tuy vì trình độ lúc xưa chưa có cơ khí, cũng
như vì nhiều lý do phức tạp con người chưa đạt được cảnh an vui thịnh vượng như
ý, thì ít ra mỗi năm để ra ít ngày và tạo điều kiện để mọi người có thể sống lối
sống lý tưởng nọ ít nhất trong ba ngày, rồi sau đó cố kéo dài ra được đến đâu
thì đến, bằng các cuộc hội hè, đình đám, chơi xuân. Đấy là lý do giải nghĩa tại sao Tết đã in sâu
vào tâm thức người Việt một ấn tượng tươi vui phấn khởi đầy tưng bừng trẻ trung
đến nỗi thiếu Tết nó làm cho ta cảm thấy mất mát một cái gì quá ư trầm trọng,
mà trầm trọng thật, vì nó là dấu mất một nền triết lý ơn ích hơn hết cho con
người mà Việt tộc có cái may đã sáng tạo và duy trì được trên bốn ngàn năm.
* Ba ngày Tết; Triết lý xây trên chữ Thời
Đang
khi các nơi chỉ có triết lý một chiều bất động gây nên các thứ độc quyền, độc
chiếm, độc chuyên, đã không giúp cho đời được an vui thì chớ, mà nếu chẳng may
nó cướp được chính quyền thì gieo rắc đau thương trầm thống khôn cùng, như dân
nước ta hiện đang là nạn nhân cực kỳ khốn đốn. Đó là trái đắng của triết lý xây
trên không gian bất động với cái Tết chỉ có một ngày, trái ngược hẳn với triết
Việt xây trên chữ Thời rất uyển chuyển vì làm bằng tiết, nhịp, hợp hòa, thống
nhất dễ giúp gây được nhiều hạnh phúc như nước ta trong hơn bốn ngàn năm qua đã
nhiều lần được hưởng. Đành rằng so với
đời sống hiện nay được nâng đỡ do khoa học kỹ thuật: đâu đâu cũng đầy xe hơi
nhà lầu với tiện nghi tràn ngập thì đời sống thôn quê ta xưa thấp hơn nhiều
lắm. Thế nhưng biết bao người di tản vẫn nuối tiếc cuộc sống bên nhà là vì hạnh
phúc con người chỉ lệ thuộc vào tiện nghi có 2 phần 5, còn ba phần nữa ở tại
lối xắp đặt, ở tại môi sinh tinh thần, ở tại tâm hồn thảnh thơi: không có tủ
lạnh nhưng gà vẫn chạy quanh vườn, cá vẫn lội dưới ao, lúc hứng lên muốn nhậu
là chạy ra xùa rãnh bắt ít con tôm, hái thêm mớ rau mớ lá, lôi ra vài xị đế
nữa, thế là một cuộc nhậu khởi đầu bất tận, nhiều khi có sáu câu vọng cổ mùi
giúp vui hay dăm ba ván cờ tướng! Khỏi lo mất job với đụng xe. Đấy không phải
bản ráp của cuộc sống trên “ bồng lai tiên cảnh “ hay sao?
Thế mà không phải chỉ có trong huyền thoại nhưng đã thấp thoáng xuất
hiện nhiều lần trong trình sử của nước ta.
Đó là công hiệu của một nền triết lý
trung thực hơn hết cho con người mà “ ba ngày Tết “ là một bản tóm sinh động. Như
vậy quả là đáng cho chúng ta nâng niu gìn giữ như một gia sản thiêng liêng để
mà truyền dòng nối dõi. Chúng ta cần phải nghiên cứu học hỏi để duy trì lấy nền
văn hóa ơn ích nọ trong các đoàn thể người Việt hải ngoại, cũng như để nuôi
dưỡng cho ngày thêm vững mạnh ý chí phục Việt kiến quốc, mong một ngày nào đó
không còn phải kỷ niệm tết, nói về tết nhưng là “ ăn tết ” với sự tham gia của
mọi giác quan trên chính quê nước khi đã tìm lại được tự do hạnh phúc như
xưa.”
Việt Nhân giới thiệu )Triết
lý cái Ðình của Kim Ðịnh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét