NHỮNG DỊ BIỆT TA-TÂY-TÀU
Tôi còn nhớ có cảm tưởng thú vị xưa khi
đọc sách Tây họ bỡ ngỡ biết bao vì người ăn mày bên ta cũng được gọi là ông là
bà. Họ ngạc nhiên là vì bên Âu Tây ai cũng gọi nhau bằng you bằng vous, chúa cũng
gọi là you mà con mèo cũng gọi là you. Vì xã hội họ không xây trên mẫu gia
đình mà trên mẫu chủ nô. Ai có của thì là chủ, ai không có của chỉ là nô. Đó là
nền móng xã hội La Hy. Người Tàu cũng chỉ có ngộ với nị, nên xã hội nhiều nô lệ
hơn ta, và phá chế độ nô lệ muộn. Bên La Mã xưa có phép đầu phiếu “bách tiền”
gọi là Centuric. Tiếng này gốc tiếng La tinh Centrum là trăm. Hễ ai có một trăm
ngàn thì đựơc bỏ phiếu. Nhiều trăm ngàn thì bỏ nhiều phiếu. Không có tiền không
được bỏ phiếu. Đó là tại xã hội xây trên tài sản chứ không trên tình gia đình,
mà vì quy chế tài sản là tuyệt đối nên 2, 3 người có 7, 8 người không, thành ra
đến 70%, 80% người trong xã hội là nô lệ, chỉ chừng 20% có tự do. Đời ấy người
ta chỉ mới biết có công bằng trừu tượng khái quát mà chưa biết đến công bằng xã
hội, tức là người nào trong nước cũng phải được tham dự tài sản trong nước. Công bằng xã hội mới
được nói đến từ cuối thế kỷ 19.
Còn bên ta có ngay từ đầu với phép công điền
công thổ, tức là ai ai hễ đến tuổi thì đều được làng cấp ruộng. Làng tôi mỗi
đinh được 5 sào, nhưng có người giữ miếng đất hay vườn quá 5 sào mà không tiện
chia cắt thì người đó phải theo “rong canh” những sào dư: mỗi sào là 5 thúng
thóc. Người đến tuổi đinh được có phần điền mà không có ruộng thì được người khác
theo rong canh cho 25 thùng thành thử không ai trong nước là vô sản hết. Ông
Paul Mus có nói người Việt Nam
nghèo thiệt, nhưng nghèo cả hàng tổng: lợi tức không có chênh lệch quá lớn về
giàu nghèo như các xã hội tư bản. Đó là nhờ phép công điền. Phép công điền đã được nói bóng trong truyện Mẹ Âu
đẻ cái bọc trăm trứng, bà sợ, vứt ra ngoài đồng thế mà rồi con nào cũng được
phương trượng hết. Không ai phải làm nô lệ vì thiếu phần điền. Đến sau Việt Nho
lược đồ hóa lý tưởng trên bằng phép tỉnh
điền, nghĩa là chia một lô đất ra 9 lô theo như hình chữ Tỉnh # cho 8 gia đình 8 lô, còn lô giữa
để nộp cho vua, trong đó có đào một cái giếng chung chữ Nho kêu là tỉnh nên gọi
là tỉnh điền. Tỉnh điền hay bọc mẹ Âu ném ra ngoài đồng đều chỉ phép công điền
công thổ mà tôi gọi là bình sản: tài
sản chia đều cho mỗi người dân.
Phép ấy tiên tổ ta đã có ngay từ Hồng Bàng Thị.
Chữ Thị nói lên tinh thần gia tộc, mà về sau các bà còn mang trong tên. Lâu
ngày người ta coi thường chữ ấy, nhưng ở thời khai nguyên thì chữ đó cao trọng
lắm, nó chỉ tinh thần mẫu hệ, đặt vợ trước chồng. Nước được lập ra do 50 con
theo mẹ lên núi, chứ không do 50 con theo cha xuống biển (đi đâu mà bặt tin tức
vậy?) nghĩa bóng là văn hóa vẫn giữ được tình người, mà trong triết gọi là giữ
được nguyên lý mẹ. Còn văn hóa Tây Âu thì không, nên mang tiếng là đực rựa: duy
dương, duy lý mà hình thái cùng cực là cộng sản duy vật chống lại mọi thứ tình:
tình nhà, tình nước, tình trời: gọi
là tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô
tôn giáo, cho nên thuyết tam vô của cộng sản cũng nảy sinh từ Âu Tây là
chuyện đương nhiên. Và những người còn bênh vực Karl Marx, Hồ Chí Minh đổ tội
cho Lenin, cho Đồng, Duẩn là tỏ ra chưa nghiên cứu thấu triệt văn hóa Âu Tây.
Cũng như nói đến Việt Nam
có chế độ nô lệ thì chỉ là nói theo “đẳng tính” tức đảng dậy vậy thỉ phải nói
vậy chứ có xét đến nguồn gốc trung thực đâu.
Đành rằng trong thực tế không giữ được đầy đủ
như trong lý tưởng, nên có những hiện tượng nô lệ. Chú ý hiện tượng chứ không
phải chế độ. Nếu chế độ thì là việc luật pháp, người nô lệ có tiền cũng không
thoát ra khỏi chế độ nô lệ. Còn hiện tượng không có hàng rào luật lệ nào. Con
sen nếu trúng lô độc đắc thì lập tức có thể trở nên bà chủ, bà giám đốc, không
ai ngăn cản cả. Nếu là chế độ thì có tới 70%, 80% người dân nô lệ. Còn hiện
tượng thì chỉ vài ba phần trăm, và cũng chỉ là con ăn đầy tớ. Đôi khi bị xử tệ
như nô lệ thì cũng chỉ là chuyện làm ẩu của chủ nhà chứ không có luật pháp nào
cho phép coi đầy tớ như sự vật. Tuy nhiên vì ảnh hưởng Hán Nho nên chế độ công
điền có suy vi dần nhưng nói chung thì đến đầu Thế kỷ 20 quá bán ruộng đất ta
vẫn còn là công điền. Đến khi Pháp cai trị thì ở miền Nam (Bạc Liêu thí dụ) công điền
nhiều nơi trụt xuống còn vài ba phần trăm, vì có những đồn điền của tư nhân
chiếm hàng nghìn mẫu. Đó là chế độ tư sản Tây Âu nương thế bảo hộ xen vào phá
vỡ chế độ bình sản của ta, đây là nói kiểu thông thường…
Còn nói theo kiểu triết lý chính trị thì đó
chính là dân chủ. Nói theo chiều tiêu cực thì dân chủ là thoát khỏi nạn chuyên
chế; còn tích cực là ăn nói. Được ăn là được tham dự tài sản trong nước gọi là
bình sản. Được nói là được tự do phát biểu ý nghĩ của mình. Như vậy dân chủ chân thực phải có bình sản, và được
tự do suy tư nói nghĩ. Thiếu hai cái đó thì chỉ là dân chủ giả hiệu. Xã hội
Âu Tây có chế độ nô lệ, nên phải dầy công mới lập được chế độ dân chủ, lúc ban
đầu cũng chỉ có dân chủ trên pháp lý, chưa có bình sản, nên tự do bị gọi là tự
do chết đói. Cộng sản đã có ý sửa lại chỗ đó bằng tuyên bố dân là chủ tài sản
quốc gia. Nhưng thực chất vẫn là tư bản, chỉ khác chủ tư bản xưa là cá nhân nay
chủ là chính quyền, dân vẫn là vô sản, đã vậy tự do cũng mất luôn nên khốn khổ
hơn vô sản xưa muôn vàn.
Xét theo
mấy điều trên ta thấy gia đình là thể chế gây ơn ích hết sức sâu xa. Ơn ích
ngay đời ta: con em học hành giỏi, bố mẹ làm ăn chóng nên cơ nghiệp. Còn đời
xưa là chế độ dân chủ chân chính có bình sản, có tự do, làm nên một xã hội có
tình có nghĩa, một quê hương tổ quốc thẳm sâu. Thật không ngờ nơi ta ra chào
đời, sống bên cạnh những ngừơi thân yêu trong quãng đời tươi đẹp nhất lại chất
chứa nhiều minh triết xuyên qua bao đời cho đến nay ta vẫn còn được
hưởng.
Kim Định
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét