015001 CHUYÊN MỤC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM TRÊN ANVILE
BLOG
XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU TỚI QUÝ ĐỘC
GIẢ
NHÀ VĂN, NHÀ NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ & VĂN HÓA VIỆT CỔ -
HÀ
VĂN THÙY
Kính thưa Quý vị,
Sau một hành trình không biết bao nhiêu
dặm (?), với hàng trăm bài viết, tiểu luận, khảo luận, tranh luận (nhiều khi có
nguy cơ rơi vào tranh cãi) và ba cuốn sách về đề tài lịch sử và văn hóa tìm về cội
nguồn văn hóa Việt Nam
trên các diễn đàn văn hóa khắp cả nước và thế giới. Năm 2014, Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy cho xuất bản thêm hai cuốn “Viết lại lịch sử Trung Hoa” tháng
07 và “Tiến trình lịch sử văn hóa Việt” tháng 09, do Nhà xuất bản và
phát hành Amazon, California, USA.
Hai cuốn sách này đã làm sôi động giới nghiên
cứu văn hóa và lịch sử ở trong và ngoài nước,
ngược lại với đại chúng, sự tiếp nhận có phần khiêm tốn hơn. Tại sao? Bởi những
vấn đề tác giả đưa ra đa phần nằm ngoài sự tưởng tượng và kiến thức của số
đông. Đây cũng là điều dễ hiểu nếu nhìn lại những thông tin chính thống về cội
nguồn văn hóa và lịch sử Việt Nam tầm quốc gia thì hầu như không đáp ứng nhu
cầu của đại chúng và tốc độ dòng chảy thông tin trong nước và quốc tế đang cuồn
cuộn như vũ bão.
Thư Quán An Vi xin chia sẻ với quý vị độc
giả, những người có nhiệt huyết đam mê khám phá những điều bí ẩn, mới lạ và huyền
diệu. Cội nguồn văn hóa dân tộc chính là viên Ngọc Long Toại đã bị chôn sâu
trong lòng đất từ ít nhất hơn hai ngàn năm trăm năm. Nay mới được khai quật,
còn muốn lấy nó làm tấm gương để soi, thì đó chính là công việc mài sáng của mỗi
chúng ta.
Đôi
nét về tác giả:
Nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa
Hà Văn Thùy sinh năm Giáp Thân 1944 tại xã Đồng Tiến, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình. Năm 1967 tốt nghiệp khoa Sinh học, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từng làm
việc ở Hội Văn nghệ Thái Bình, Kiên Giang, báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam . Hiện nay
sống tại Sài Gòn.
Tác
phẩm chính:
- Thời gian gom nhặt
(thơ). NXB Trẻ 1999
- Trấn Hà Tiên và Tao đàn Chiêu Anh Các (biên khảo).NXB Văn Học, 2005
-
Phiêu lưu cùng côn trùng (dịch từ tiếng Nga).
- Nguyễn Thị Lộ (tiểu
thuyết). NXB Văn Học, 2005
- Góp với văn đàn (phê bình, tiểu luận văn chương). NXB Văn Học, 2006 - Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt. NXB Văn Học, 2006
- Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn Học, 2008
- Di ngôn Phật sống Lưu Công Danh. NXB Văn Học, 2008 - Tìm cội nguồn qua di truyền học. NXB Văn Học, 2011
-
Viết lại lịch sử Trung Hoa 2014
- Tiến trình lịch sử văn hóa
Việt 2014.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu hai
tác phẩm mới nói trên qua Lời nói nói đầu và Lời giới thiệu.
VIẾT LẠI LỊCH SỬ TRUNG HOA
MỤC LỤC
Lời nói đầu ………………………………………………………………
Chương I : Những yếu tố làm nên quan
niệm
về nguồn gốc dân tộc Trung
Hoa ………………………………
Chương II: Cội nguồn dân tộc Trung Hoa theo cách nhìn
mới …………
Chương III: Bách Việt ……………………………………………………
Chương IV: Trung Quốc thời đại đá mới ………………………………..
Chương V: Trung Quốc thời đại đồ đồng ………………………………..
Chương VI: Sự hình thành tiếng nói Trung Hoa ………………………..
Chưong VII: Sự hình thành chữ viết Trung Hoa ……………………….
Chương VIII: Hai nền văn hóa trên đất Trung Hoa …………………….
Chương IX: Viết lại lịch sử Trung Hoa …………………………………
Kính dâng anh linh
những người Việt
đi khai phá đất
Trung Hoa
LỜI NÓI ĐẦU
Bạn thân mến,
Bạn đang đọc những dòng đầu tiên của cuốn
sách sẽ chấn động niềm tin và thức tỉnh lương tri bạn.
Cho đến nay, không chỉ bạn mà cả thế giới
tin rằng, người phương Tây đem Văn Minh đến Trung Hoa. Tới lượt mình, người Trung Hoa mang
Văn Minh xuống khai hóa dân An Nam
mông muội. Ngôn ngữ Việt mượn 60% tiếng Hán. Văn Hóa Việt là sự vay mượn Văn
Hóa Trung Quốc chưa đến nơi đến chốn…
Tin hay không tùy bạn nhưng đó là sự dối
trá vĩ đại!
Từ tri thức của thế kỷ XXI, cuốn sách này sẽ nói với bạn
một sự thật trái ngược.
Hàng vạn năm trước, khi phần lớn nhân loại còn sống
vùi trong băng giá thì từ Việt Nam, người Việt đã mang rìu đá – công cụ ưu việt
của loài chúng ta thời đó – đi lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi cũng từ Việt Nam ,
những lớp di dân tiếp theo mang cây lúa, cây kê, giống gà, giống chó lên xây
dựng nền văn minh nông nghiệp rực rỡ trên Hoa lục. Tiếng nói Trung Hoa được
sinh ra từ tiếng Việt. Chữ tượng hình Giáp cốt văn Trung Hoa do người Việt sáng
tạo. Kinh Thi, kinh Thư, kinh Nhạc, kinh Lễ là của người Việt. Âm Dương, Ngũ
Hành, Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái và Dịch lý… cũng là sáng tạo của người Việt.
Nếu lịch sử một quốc gia là lịch sử
của những cộng đồng dân cư chủ đạo làm nên quốc gia đó, thì lịch sử
Trung Hoa chính là lịch sử của người Việt đã và đang sống trên đất Trung Hoa.
Bạn ngỡ ngàng, bạn nghi ngờ? Không có gì lạ vì nhiều người cũng hoài nghi như
bạn! Dễ gì trong chốc lát lật ngược sự thật bị khuất lấp hơn hai nghìn năm!
Vâng, hai nghìn năm lầm lạc! Nguyên nhân là trong quá khứ, người Việt bị mất
đất đai, mất chữ viết nên mất luôn lịch sử. Từ chủ nhân của nền Văn Minh phương
Đông rực rỡ, người Việt bị tước đoạt tất cả để trở thành đám trôi sông lạc chợ
học nhờ đọc mướn! Rất may là, sang thế kỷ này, trí tuệ nhân loại đã soi sáng
quá khứ bị quên lãng, trả lại công bằng cho lịch sử.
Vì lẽ đó, phải viết lại lịch sử Trung Hoa.
Cuốn sách nhỏ nơi tay bạn sẽ là những dòng
đầu, chương đầu của mọi cuốn sử Trung Hoa trong tương lai.
Sài Gòn
Xuân 2013
Hà Văn Thùy
LỜI GIỚI THIỆU
Anh Hà
Văn Thùy là người bạn mà tôi quen biết từ hơn 10 năm nay qua những bài viết
trước kia của anh và của riêng tôi về lịch sử và nguồn gốc con người ở Đông Nam
Á và Đông Á, dựa trên những khám phá khoa học mới về di truyền học vào cuối thế
kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Chúng tôi đã liên lạc qua điện thư và tiếp xúc trao đổi
vài lần khi tôi có dịp về Việt Nam .
Qua đó tôi được biết anh không những là nhà văn, nhà báo mà trước đó anh đã là
nhà sinh học, tốt nghiệp cử nhân sinh học từ trường đại học (Hanoi University,
1963-1967)... Điều này cho tôi câu trả lời một phần về sự đam mê hăng say của
anh trong các công trình nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt và các cư dân
Đông Nam Á và Đông Á qua các chứng cứ về di truyền học.
Ở
Australia trong các năm 2003-2006, tôi, anh Nguyễn Văn Tuấn và anh Cung Đình
Thanh có cộng tác viết các bài về đề tài này để đăng trên tập san Tư Tưởng do
anh Cung Đình Thanh sáng lập. Chúng tôi có liên lạc, trao đổi thông tin và chia
sẻ các ý tưởng, đề tài nghiên cứu với anh Thùy. Sau này khi anh Thanh mất, và
cũng do bản thân tôi chuyển qua các lãnh vực và đề tài nghiên cứu khác nên
không còn liên lạc nhiều với anh Thùy.
Gởi
email cho tôi, anh Thùy tâm sự: “Trong đêm trường dạ ngược thời gian tìm về
nguồn cội, tôi vui mừng khôn xiết khi gặp nơi nhóm Tư tưởng đốm sáng dẫn đường.
Tôi đã noi theo các anh với bao hy vọng. Nhưng rồi anh Thanh mất, anh và
anh Tuấn “theo nghề bỏ cuộc chơi”, tôi trở nên bơ vơ…”
Có thể là bơ vơ một lúc nào đó nhưng do có
hướng rồi nên anh Thùy không bỏ cuộc. Vốn là nhà sinh học tự phấn đấu thành nhà
văn có hiểu biết nhất định về tiến trình lịch sử dân tộc, lại may mắn được tiếp
cận tư tưởng Việt Nho của triết gia Kim Định nên khi bắt gặp những phát hiện
của di truyền học, những hạt giống được gieo từ nhiều nguồn, đã bùng phát nảy
nở. Chỉ trong vòng năm năm từ 2007 tới 2011, anh cho in ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học,
2006), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 2011). Ba cuốn sách cùng
một đề tài, nhưng với mỗi cuốn là một sự phát hiện, là sự chín dần của tri thức
và tư tưởng. Ở lời tựa cuốn thứ ba, tác giả viết: “Trong khi hào hứng phục
dựng lâu đài văn hóa nguy nga, kỳ vĩ của tộc Việt, người viết chưa kịp đắp
những bậc cấp, khiến người chiêm ngưỡng chưa có đường lên, ngỡ rằng đó là “lâu
đài cất bằng hơi nước!” Vì vậy, người viết thấy cần làm cuốn sách khác, một
tuyển tập những công trình nghiên cứu tiên phong và đáng tin cậy về lĩnh vực
đang quan tâm, những khảo cứu của người viết và những bài mà các tác giả có nhã
ý trao đổi, để rộng đường ngôn luận.” Và anh đã làm được công việc mình đặt ra.
Những công trình có giá trị đặt nền tảng cho khoa học mới, nghiên cứu nguồn gốc
và sự di cư của loài người đến Việt Nam của nhóm J.Y. Chu, của Stephen
Oppenheimer, của Wilhelm Solheim II … trước đó chỉ được dẫn
qua thư mục tiếng Anh, nay được dịch sang tiếng Việt. Không chỉ bằng lòng với
việc chuyển ngữ, tác giả, trong khả năng của mình, sau mỗi bản dịch đã đưa ra
bình luận riêng về những tài liệu trên, góp phần hướng dẫn người đọc. Đúng như
tác giả nói: “Với tính chất như vậy, cuốn sách này có thể là tài liệu nhập môn
giúp độc giả tiếp cận phương pháp khoa học mới trong nghiên cứu thời tiền sử
người Việt.”
Sau cuốn sách thứ ba, tác giả của tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ muốn giã từ
thời tiền sử để trở lại hiện tại với cuốn tiểu thuyết đang viết... Nhưng rồi
trong lúc nào đó, anh ngộ ra, tất cả những phát hiện về cội nguồn cùng văn hóa
Việt chẳng đã mở ra bí mật của thế giới Trung Hoa sao? Vì vậy, vào mùa Xuân năm
2012 cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa
được khởi thảo. Tác giả tâm sự, khi bắt tay vào viết, anh cho rằng những tư
liệu mình có đã đủ cho cuốn sách. Nhưng khi những chương sách hiện ra, anh nhận
thấy mình còn thiếu quá nhiều. Vì vậy, anh dừng lại và nhờ internet, mò tay tới
tận cùng trí tuệ nhân loại để lôi ra những tri thức về Trung Hoa, từ Chu Khẩu
Điếm, Ngưỡng Thiều, Long Sơn… tới những khám phá mới nhất nơi Động Người Tiên
bên bờ sông Dương Tử đầu năm 2012, thực hành một cuộc đại kiểm kê trí tuệ nhân
loại về nền văn minh lớn nhất hành tinh! Và bằng tâm trí mẫn tiệp đặc biệt, anh
đã kết nối rồi giải mã, biến những tri thức đã biết của từng khoa học riêng lẻ,
thăng hoa thành những nhận định mới mẻ tới ngỡ ngàng…
Một bản Viết
lại lịch sử Trung Hoa của anh Thùy đang nằm trên bàn tôi với đề nghị viết
lời giới thiệu. Đây là vinh dự và cũng là công việc khó khăn, nặng nề vì với
cuốn sách này, không thể viết như bài điểm sách thông thường. Muốn có bài viết
tương xứng, cần không it thời gian và tâm huyết.
*
* *
Muốn tiếp cận cuốn sách này, trước hết cần phải hiểu lịch sử hình thành
của khoa học nhân văn Việt Nam .
Theo một nghĩa nào đó, thì khoa học nhân văn Việt Nam mơ hồ đã xuất hiện những
ý tưởng sơ khai từ xa xưa, khi con người ngưỡng vọng tổ tiên thời còn ăn lông ở
lỗ, với câu chuyện quả bầu của người Dao: “Trời sinh ra quả bầu. Sau nạn đại
hồng thủy, quả bầu vỡ. Mỗi hạt bầu là một tộc người túa ra sinh sống trên mặt
đất.” Tiếp đó, từ huyền thoại, dân ta tìm được ông tổ Toại Nhân làm ra lửa, bà
Nữ Oa đội đá vá trời, ông Phục Hy làm ra Dịch và ông Thần Nông “giáo dân nghệ
ngũ cốc.” Gần hơn là Cha Rồng Lạc Long Quân cùng Mẹ Tiên Âu Cơ sinh một bọc
trăm trứng… Người Việt truyền ngôn: Việt Hoa đồng văn đồng chủng nên dòng đầu
tiên của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thuở Hoàng Đế dựng muôn nước…” Những ý tưởng mang tính khoa học nhân văn sơ khai
vốn bàng bạc từ xa xưa nhưng khoa học nhân văn thực sự của Việt Nam chỉ ra đời
khi nhà nước bảo hộ Pháp thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội vào năm
1898.
Ở thời điểm đó, tri thức về Viễn Đông của học giả Pháp còn nghèo nàn nên
nhân vật chính yếu của Viện là những nhà Hán học như L. Aurousseau, H. Maspéro…
Là học giả phương Tây, mặc nhiên các vị này mang quan niệm Âu trung – Châu Âu
là trung tâm của văn minh nhân loại. Vũ khí trí tuệ siêu việt của những người
đi “khai hóa” là hai định đề khoa học vững chắc: văn minh nhân loại từ Lưỡng Hà
truyền qua Hy-La sang châu Âu rồi từ đó qua Trung Á vào Trung Quốc, sau cùng
xuống Đông Nam Á. Còn con người, từ cao nguyên Tạng chuyển dịch về phía đông
nam, qua Trung Hoa tới Việt Nam. Là nhà nho, họ đương nhiên cũng là đệ tử của
quan niệm Hoa tâm – Trung Quốc là trung tâm của văn minh phương Đông. Dưới mắt
họ, Việt Nam
cùng Đông Nam Á chỉ là vũng nước đọng của lịch sử! Vì vậy, để hiểu về xứ Annam
mông muội, học giả Pháp bắt đầu từ cổ thư Trung Hoa.
Năm 1904, trong cuốn Le Cambodge xuất
bản tại Paris, viện sĩ E. Aymonier đề xuất giả thuyết: “Tổ tiên những người ngôn ngữ Mon-khmer bắt nguồn từ những sườn núi
phía nam Tây Tạng rồi di chuyển về phương nam theo hai hướng, hướng tây nam
sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng đông nam sinh ra các tộc Mon-khmer ở Đông
Dương.”
Từ thuyết này, vào đầu những năm 20 thế kỷ trước, học
giả L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng: “Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam.
Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày
nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Ðến thế kỷ thứ IX trước CN, một
ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Chiết Giang,
thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333
trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam
theo bốn nhóm: Nhóm Ðông Âu hay là Việt Ðông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân
Việt ở Phúc Kiến. Nam Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam . Các nhóm kể trên bị Hán hóa,
chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…”
”Vậy thời ta
có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp
của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI
trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Chiết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực
con sông cùng tên ấy”[1]
Áp dụng hai thuyết trên vào lĩnh vực ngôn ngữ học, nhà
ngữ học hàng đầu của Viện Viễn Đông Bác Cổ L. Maspéro cho rằng: “Tiếng Việt vay mượn khoảng 70% từ tiếng
Hán.”
Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges
Coedès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950. Qua
những văn bia chữ Phạn thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam , ông cho rằng Đông Nam Á chỉ là
hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc.
Từ thập niên 1920, Viện Viễn Đông Bác Cổ tiến hành
nhiều khai quật khảo cổ học, phát hiện văn hóa đá mới Hòa Bình. Tới thập niên
1930 tìm thấy trống đồng Đông Sơn được đúc một cách tinh xảo. Nhìn nhận việc
này, nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern cho rằng Đông Nam Á là
vùng đã kinh qua nhiều "làn sóng văn hóa”, và những cuộc di cư liên
tục đem đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng, những cái rìu
mang hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải xuất
phát từ miền Bắc Trung Quốc. Trống đồng Đông Sơn là thành quả của một làn sóng
văn hóa khác, xuất phát từ người Đông Âu, những người di cư về phía Nam
vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên và đến Đông Nam Á vào khoảng 500 năm sau
đó.
Trong khi học giả hàng đầu của Đông phương học
Pháp tự khuôn mình trong định kiến hẹp như vậy thì bức tranh toàn cảnh của khoa
học nhân văn thế giới đa dạng hơn.
Thời đó đã tồn tại hai giả thuyết về nguồn
gốc con người. Giả thuyết Phi châu (Out
of Africa hypothesis.) phát biểu rằng con
người hiện đại chỉ xuất hiện từ Phi châu khoảng 100.000 đến 200.000 năm trước.
Trái ngược với nó là Giả thuyết Nhiều vùng (Multiregional hypothesis)
lý giải rằng con người hiện đại tiến hóa trong nhiều địa bàn trên thế giới từ Homo
erectus khoảng 1 đến 2 triệu năm trước.
Tư
tưởng của Thuyết Nhiều vùng kết hợp
với cổ thư Trung Hoa đã chi phối các học giả Viễn Đông Bác Cổ, khiến họ có cái
nhìn định kiến về Viễn Đông.
Tháng Giêng năm
1932, Hội nghị Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác
nhận: "Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất
nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông
nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm." (Encyclopédia d’Archeologie). Tuy nhiên phát hiện này không được trường
phái Viễn Đông Bác Cổ ủng hộ.
Sự bảo
thủ như vậy không chỉ về khảo cổ mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là
ngôn ngữ học. Cho tới năm 1905, Đại tá
người Pháp Frey, H, (1847-1932) từng làm việc tại Tây Phi và Đông Dương đã công
bố ba cuốn sách liên quan tới ngôn ngữ Việt Nam là: 1. L'Annamite, mère des
langues; communauté d'origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et
de l'Indo-Chine, Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có
nguồn gốc của các chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương); 2. Annamites
et extréme occidentaux, recherche sur l'origine des langues, Paris Hachette,
1894, 272 p. (An Nam và Viễn Tây, nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ) và 3.
Les Egyptiens préhistoriques identifiés avec les Annamites, d'aprés les
inscriptions hiéroglyphiques Paris ,
Hachette, 1905, 106 p. (Người Ai Cập thời tiền sử liên hệ với An Nam qua chữ
khắc tượng hình). Một vài tác giả khác cũng có cái nhìn gần gũi với Frey: tiếng
Việt là mẹ các ngôn ngữ phương Đông. Tuy nhiên các học giả chủ chốt của Viễn
Đông Bác Cổ phản bác đề xuất này. Đặc biệt, từ năm 1933 tới 1937, có cuộc tranh
luận giữa nhà ngữ học Ba Lan Przilusky với viện sĩ Maspéro về nguồn gốc của
ngôn ngữ Việt Nam. Trong khi Przilusky đồng ý với Frey là tiếng Việt sinh ra
các ngôn ngữ phương Đông thì Maspéro cực lực phản đối, vẫn giữ quan điểm của
mình: tiếng Việt vay mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Ở đây, kẻ chiến thắng không
phải chân lý khoa học mà là vai vế của người tranh luận. Quan điểm của
Przilusky bị bác bỏ. Các học giả tiên phong người Việt từ Trần Trọng Kim,
Nguyễn Văn Tố tới Đào Duy Anh học theo rồi truyền bá thành kiến thức chính
thống trong cộng đồng người Việt.
Trong khi
các yếu nhân của Viễn Đông Bác Cổ cứ theo định kiến của mình thì trên thực địa
khoa học ngày càng xuất hiện nhiều tiếng nói trái chiều.
Năm 1952,
tiếp nối tư tưởng của Hội nghị về Tiền sử Viễn Đông 20 năm trước, học giả Hoa Kỳ
C. Sauer viết trong cuốn Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán (Agricultural Origins and Dispersals): "Ðúng
là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là văn hóa Hòa
Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ." “Tôi
đã chứng minh Ðông Nam
Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa
nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng
minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là
trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng
bằng cách tái sinh sản thực vật."
Năm 1965, để cứu một di chỉ sắp chìm trong hồ thủy
điện, nhóm nghiên cứu của Giáo sư Solheim II được phái đến Thái Lan. Qua hiện
vật tìm được ở Động Linh hồn (Spirit
Cave ), Chester Gorman và
các cộng sự ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con người sử dụng khoảng
10.000 năm trước CN. Tại đây, ông phát hiện một cây rìu và dao có niên đại
7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn các cây rìu tìm thấy ở Trung Quốc
đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công cụ như thế do Trung
Quốc "xuất cảng" sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm trước Công nguyên).
Năm 1972 Chester Gorman trở lại Thái Lan. Ông tìm
thấy hai động khác, và có thể kết luận rằng có một quá trình định cư của
con người tại đây khoảng 10.000 năm trước Công nguyên đến 1.000 năm sau Công
nguyên. Ông đặt tên nền kinh tế thịnh vượng này là nền kinh tế Hòa Bình (vì các
công cụ dùng có cùng hình dạng với công cụ tìm thấy tại Hòa Bình trước
đó). Năm 1966, một học trò khác của Solheim II là Donn Bayard tiến hành khai
quật một nghĩa trang thời tiền sử có tên là Non Nok Tha (Thái Lan). Tại đây, dù
chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã phát hiện 800 bình, lọ làm bằng gốm được chôn cất
cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích, Bayard ước tính niên đại của
các di chỉ này từ 3.500 đến 2.000 năm trước Công nguyên (thời gian này cũng là
lúc các thành phố vùng Lưỡng Hà bắt đầu xuất hiện). Ngoài ra, Bayard còn
khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay làm bằng đồng và thiếc.
Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn không có dấu hiệu thô sơ chút nào;
ngược lại, chúng cho thấy người sản xuất đã nấu chảy kim loại và đổ khuôn.
Những phát hiện tại Động Linh Hồn và nghĩa trang Non Nok Tha là một thách thức
nghiêm trọng đến những giả thuyết từng được lưu hành và chấp nhận trước
đây.
Từ
những khám phá trên, vào năm 1967, Giáo sư W.G. Solheim II đã viết:
"Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu
lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra
rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình
(Việt Nam )
thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN..."
"Rằng văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản
địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới văn hóa Bắc Sơn."
"Rằng
miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong
đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không
nói là đầu tiên của thế giới và gốm đã được phát minh..." "Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật
đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi, mà còn đi xa hơn, nơi
đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây
đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực
tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu
thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN."
[2]
Điều
lạ lùng là những khám phá trên không hề gây tiếng vang nào trong giới khoa học
Việt Nam .
Cũng
thời gian này, dưới đạn bom, giới khảo cổ miền Bắc Việt Nam hồ hởi tìm kiếm thêm về nền văn
hóa Đông Sơn với mục tiêu chính trị, chứng minh cho thời Hùng vương trong sử
Việt.
Phát
huy tư tưởng Maspéro của Viễn Đông Bác Cổ, dưới ánh đèn dầu trong lán trại sơ
tán tại Đại Từ Thái Nguyên, vị giáo sư hàng đầu của ngôn ngữ học Việt Nam
Nguyễn Tài Cẩn khởi thảo công trình ngữ học lớn: Nguồn gốc và quá trình hình
thành cách đọc Hán - Việt! Một học giả khác, Cao Xuân Hạo, đơn thương độc
mã tìm lại bản thể của ngữ pháp Việt mà theo ông đã bị các nhà Tây học xuyên
tạc!
Trong
bộ môn nhân chủng học, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa hàng ngày rị mọ đo lại chỉ số
của hơn 70 chiếc sọ trong sưu tập sọ cổ Việt Nam, thai nghén công trình Nhân
chủng học Đông Nam Á.
Vào
thập niên 1980, những công trình hoài thai trong khói lửa đã ra đời.
Áp
dụng quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, khoa học lịch sử Việt Nam
dân chủ cộng hòa kết tội Triệu Đà xâm lược và trục xuất thời đại nhà Triệu khỏi
chính sử. Từ phát hiện về văn hóa Đông Sơn, các sử gia Việt Nam chối bỏ truyền
thuyết nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN để khẳng định, lịch sử Việt bắt đầu cách
nay 2700 năm.
Cuốn
sách Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt ra đời. Vượt
qua người thầy Tây của mình, Giáo sư Nguyễn khám phá ra trong tiếng Việt có lớp
từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa, mặc nhiên thừa nhận,
tiếng Việt còn vay mượn nhiều hơn 70% từ ngôn ngữ Mẹ Hán! Được giới học thuật
trong nước và quốc tế đánh giá cao, tác giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.
Trong khi đó, bằng nhiều nghiên cứu, Cao Xuân Hạo từng bước tìm lại ngữ pháp
nguyên thủy của tiếng Việt đã nhiều năm bị cải biến theo văn phạm Gôloa! Và cố
nhiên, ông trở thành con người khó chịu, không được ưa chuộng!
Trong
công trình Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa
kết luận:
“Thoạt kỳ thủy, trên lãnh thổ Việt Nam và Đông Nam Á
xuất hiện hai đại chủng Mongoloid và Australoid, họ hỗn hòa với nhau cho ra bốn
chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, thuộc nhóm loại hình
Australoid. Vào thời Ðá Mới, cư dân Ðông Nam Á thuộc hai đại chủng Australoid
và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau,
trong đó Indonesien và Melanésien là hai thành phần chủ yếu. Sang thời Ðồng-Sắt, trên toàn Ðông Nam Á diễn ra việc chuyển hóa mạnh từ loại hình
Indonesien sang loại hình Nam
Á (Mongoloid phương Nam ).
Thành phần Australoid thu hẹp đến tối đa trong khu vực, không hiểu là do di dân
hay đồng hóa.”
Từ hôm nay nhìn lại, qua
lăng kính di truyền học, ta thấy rằng, đó là phát hiện cực kỳ chính xác, có thể
nói, là thành tựu cao nhất mà nền nhân chủng học “đo sọ” có được. Tuy nhiên, do
hạn chế của khoa học lúc đó, khám phá của vị giáo sư cũng như câu hỏi do ông
đặt ra vẫn treo đó!
Và cho tới năm 2003, Giáo
sư Trần Quốc Vượng, ở ngôi “tứ trụ” của sử học Việt Nam vẫn tuyên bố trên Đài
BBC tiếng Việt: “Việt Nam ủng hộ thuyết Nhiều vùng của tổ tiên loài người.”
Có thể nói, cho tới cuối
thế kỷ trước, khoa học nhân văn Việt Nam , dù có những phát hiện thêm di
chỉ khảo cổ học nhưng về mặt tư tưởng, về cơ bản chưa vượt qua những gì được
hình thành từ thời Viễn Đông Bác Cổ, thậm chí còn có những thụt lùi.
*
* *
Dấu hiệu về sự khủng hoảng
của một ngành khoa học xuất hiện khi nó bất lực không trả lời được những câu
hỏi mà cuộc sống đặt ra.
Sự khủng hoảng của khoa học
nhân văn Việt Nam là có thật nhưng nói cho cùng, nó cũng nằm trong khủng hoảng
chung của khoa học nhân loại do chưa có sự bứt phá mới, giải quyết dứt điểm vấn
đề cơ bản nhất là nguồn gốc người hiện đại và quá trình hình thành các tộc
người trên Trái đất.
Và việc phải tới đã tới.
Đó là ngày 29 tháng 9 năm
1998, khi nhóm nghiên cứu do Giáo sư J.Y Chu đứng đầu công bố công trình nghiên
cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc với nội dung sau:
1. Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra từ
Đông Phi khoảng 160.000 đến 200.000 năm trước.
2. Người tiền sử từ châu Phi băng qua Hồng
Hải, men theo bờ biển Ấn Độ dương tới Việt Nam 60.000 đến 70.000 năm trước.
3. Tại Việt Nam, họ hòa huyết, tăng số lượng
rồi 50.000 năm trước di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, tới Ấn Độ. 40.000
năm trước, khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên Trung Quốc và khoảng 30.000
năm cách nay vượt qua eo Bering sang chinh phục châu Mỹ. [3]
Thông tìn trên gây chấn
động giới khoa học Mỹ vì nó có ý nghĩa lật đổ với thuyết Nhiều vùng và mở ra
viễn cảnh to lớn cho khoa học nhân văn thế giới.
Ở Australia , chúng tôi đón nhận thông
tin này như niềm vui lớn và do chuyên môn của mình, bắt tay vào cuộc nghiên
cứu. Từ năm 2001 chúng tôi đã có những bài viết đầu tiên về khám phá này và
trong các năm 2003 – 2006 đăng trên tạp chí Tư Tưởng.
Anh Hà Văn Thùy tiếp cận
công trình của nhóm J.Y. Chu vào cuối năm 2004 và từ đó có trao đổi học thuật
cùng chúng tôi. Ba cuốn sách anh Thùy có được, phần quyết định là nhờ tư tưởng
của những phát hiện mới mẻ này.
*
* *
Với khoảng 300 trang in, Viết
lại lịch sử Trung Hoa có thể giữ kỷ lục về số chữ ít mà hàm chứa lượng
thông tin lớn:
1.
Cho đến nay, dù tự hào có 24 cuốn quốc sử (nhị thập tứ sử), người Trung
Hoa vẫn chưa xác định được tổ tiên mình là ai. Những học giả hàng đầu của Trung
Quốc đang tranh nhau hai quan điểm: phái cổ điển cho rằng, tổ tiên họ là người
Erectus Nguyên Mưu, Chu Khẩu Điếm. Phái cách tân lại nhận tổ tiên họ là người
Arian từ phương Tây tới. Trong Viết lại lịch sử Trung Hoa, nhất quán với
công bố từ trước, và với chứng cứ vững chắc hơn, tác giả khẳng định, người
Trung Quốc là những người từ Việt Nam đi lên, trong quá trình lịch sử có hòa
huyết với người Mongoloid phương Bắc, cũng từ Việt Nam tới.
2.
Một vấn đề nhạy cảm trong lịch sử Trung Hoa là nguồn gốc của nhóm Hoa
Hạ. Tác giả khám phá rằng: người Hoa Hạ xuất hiện khoảng 2700 năm TCN, sau cuộc
xâm lược của người Mongoloid phương Bắc vào địa bàn của người Việt chủng
Mongoloid phương Nam ở Nam Hoàng Hà. Tại
đây, lớp con lai Mông-Việt ra đời. Nhờ được kết hợp hai dòng máu và hai văn
hóa, người Hoa Hạ trở thành lớp người ưu tú, nắm giữ vai trò lãnh đạo khối dân
Việt đông đảo, làm nên thời kỳ rực rỡ của phương Đông từ Nghiêu, Thuấn tới Tây
Chu. Do vinh quang của tộc Hoa Hạ nên sau này, khi giành được quyền bính, những
thủ lĩnh người Việt như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang cùng bộ phận lớn người Việt
cũng nhận là Hoa Hạ.
3.
Trái ngược với niềm tin vững chãi trong giới ngữ học quốc tế theo giả
thuyết của nhà ngữ học Thụy Điển Bernhard
Karlgren, cho rằng tiếng Trung Hoa
thuộc ngữ hệ Hán Tạng, rằng tiếng Việt vay mượn 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa; với
nhiều bằng chứng khó phản bác, tác giả chứng minh, tiếng Trung Hoa là tiếng
Việt cổ được nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance) và không hề có cái
gọi là ngôn ngữ nguyên Hán Tạng (Proto
Sino-Tibetan)
4.
Cho đến nay, ngoài huyền thoại Hoàng Đế sai Thương Hiệt chế chữ thì
người Trung Hoa chưa chứng minh được ai sáng tạo chữ vuông tượng hình. Trong
tác phẩm của mình, với nhiều bằng chứng khó tranh cãi, tác giả cho thấy, người
Việt cổ ở phía nam Dương Tử sáng chế ra chữ tượng hình, từ những nét sơ khai
tại bãi đá Sapa tới chữ Giả Hồ, Cảm Tang và cao nhất là Giáp cốt văn tại An
Dương Hà Nam. Khi xâm lăng Hà Nam ,
nhà Ân đã học chữ của người Việt rồi phát triển lên.
5.
Phát hiện thứ năm của tác giả là xác định hai nền văn hóa trên đất
Trung Hoa. Trong thời gian dài sinh sống trên đất Trung Hoa, người Việt đã xây
dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Với cuộc xâm lăng của Hiên Viên
và sự xuất hiện nhóm Hoa Hạ, văn hóa trên đất Trung Hoa chuyển sang giai đoạn
rực rỡ tới cuối đời Tây Chu. Sau đó, do nhiều biến động lịch sử, những tộc
người du mục xâm nhập, đồng thời bản năng du mục trong khối Hoa Hạ trỗi dậy,
đẩy Trung Hoa vào thời Chiến Quốc tàn bạo. Các đế chế Trung Hoa hình thành,
ngày thêm khuếch trương bản năng du mục, tạo ra khuôn mặt của văn hóa Trung Hoa
hiện đại.
6.
Trong một bài viết, tác giả yêu cầu “Trả lại công bằng cho lịch sử.”
Với những trước tác của mình, tác giả không những đã trả lại công bằng cho lịch
sử mà hơn nữa, tìm ra bài học quý giá từ lịch sử.
Chúng ta đều biết, khoảng
10.000 năm trước, khi Kỷ Băng hà cuối cùng chấm dứt, người phương Tây thuần hóa
con cừu con dê đầu tiên, bước vào phương thức sống du mục. Nhưng từ 50-60000
năm trước đó, tại địa đàng phương Đông, người Việt đã có cuộc sống xã hội rồi
sớm bước vào nông nghiệp. Chính nông nghiệp làm nên văn hóa rực rỡ của phương
Đông. 300 năm trước, chủ nghĩa tư bản của văn minh du mục với thép, vi trùng và
súng tiến vào hủy diệt văn hóa phương Đông và đến nay đang đe dọa hủy diệt nhân
loại. Trí tuệ nhân loại đang bị khủng hoảng, chưa tìm ra lối thoát. Những bộ óc
hàng đầu của phương Tây cho rằng vấn nạn của nhân loại ngày nay là do nữ
quyền bị chén ép. Một sai lầm chết người! Không phải là nữ quyền mà vấn đề
lớn hơn mang tầm vũ trụ: sự phá vỡ cân bằng Âm Dương của thế giới! Là
con đẻ của văn minh du mục, chủ nghĩa tư bản đã đẩy thế giới vận hành theo
chiều Dương cực thịnh, Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Làm sao đây cứu nguy nhân
loại? Minh triết phương Đông chỉ ra: phải hướng thế giới trở lại vận hành hài
hòa theo chiều tham thiên lưỡng địa của văn hóa nông nghiệp Việt tộc,
tức dành cho Cha, cho Dương 3 phần, thì cũng dành 2 phần cho Âm, cho Mẹ!
Ở trên, tôi có nói tới cuộc
khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam . Không có gì bất thường vì nó
là một bộ phận của cuộc khủng hoảng chung của khoa học nhân văn thế giới, khi
bằng tận lực của mọi công nghệ cùng phương pháp luận cũ, con người vẫn bất lực
trong việc giải quyết vấn đề căn cơ nhất là nguồn gốc của nhân loại và sự hinh
thành các dân tộc trên hành tinh. Mọi hành vi lịch sử, văn hóa đều là sản phẩm hoạt
động xã hội của con người vì vậy chỉ có thể hiểu thấu đáo lịch sử văn hóa khi
hiểu thấu đáo chính con người chủ nhân của lịch sử, văn hóa!
Trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, một công nghệ mới cùng với phương pháp luận mới đã mở ra cơ hội lớn của
khoa học nhân văn. Con người tìm lại chính xác tổ tiên cội nguồn không còn qua
hiện vật khảo cổ hay những mẩu xương hóa thạch mà là tìm ngay trong chính dòng
máu linh thiêng của mình.
Là may mắn, nhưng có lẽ
đúng hơn là do duyên nghiệp, nên tuy không phải bỏ ra đồng xèng nào cho những
công trình di truyền học, người Việt Nam thụ đắc khối lượng lớn kết quả
nghiên cứu của nhân loại. Kỳ diệu sao, tất cả những khám phá lẫy lừng thập niên
đầu thế kỷ đều chứng minh rằng, con người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam rồi
lan ra toàn châu Á; rằng, người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong
các sắc dân Đông Á… Một khi Việt Nam đã là cái nôi của các dân tộc
châu Á, mặc nhiên cũng là nôi của văn minh châu Á!
Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy,
trên thực tế đã đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện đại và đưa
khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên tiến của thế giới.
Nhận thấy đây là công trình có giá trị, mặc dầu còn vài lý giải
có thể chưa được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay ở trong và
ngoài nước, tôi trân trọng giới thiệu công trình nghiên cứu công phu này của
anh Hà Văn Thùy đến bạn đọc.
Ph.D. Nguyễn Đức Hiệp
Chuyên gia Khoa học khí quyển
Bộ Môi trường và Bảo tồn, New South Wales, Australia.
TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT
MỤC LỤC
Lời
nói đầu
Phần Một:
NHỮNG
VẤN ĐỀ VĂN HÓA VÀ NHÂN CHỦNG VIỆT
Chương
I: Chia tay nền khoa học nhân văn cũ……. 7
Chương II: Nguồn gốc và quá trình hình thành đại tộc
Việt………………………………………………………23
Phần Hai
NHỮNG
NỀN VĂN HÓA TIỀN SỬ
Chương
III: Thời đại đồ đá cũ………………………..51
Chương
IV: Thời đại đồ đá mới…………………….. 56
Chương
V : Thời đại kim khí…………………………72
Chương VI: Văn minh
nông nghiệp……………… 119
Chương VII: Văn hóa
phi vật thể…………………. 156
Chương
VIII: Nguồn gốc và quá trình hình thành tiếng Việt……………………………………………………..194
Chương
IX: Chữ Việt cổ…………………………….227
Chương
X : Khảo về Bách Việt…………………….284
Chương XI: Sự ra đời những
nhà nước cổ của người Việt……………………………………………………319
Phần Ba
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT
Chương
XII: Việt Nam ,
Trung Hoa và Đông Nam Á ………………………………………………………….354
LỜI NÓI ĐẦU
Bạn thân mến,
Trong tay bạn là cuốn sử chưa từng có của tộc Việt.
Không phải 5.000 năm mà nó được bắt đầu từ 70.000 năm trước, khi những nhóm
người Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ Dương đặt chân tới thềm Biển
Đông của Việt Nam. Rồi tại địa đàng phương Đông này, người Việt lan tỏa ra Đông
Nam Á, sang đất Ấn Độ, đi lên khai phá vùng đất nay có tên là Trung Hoa và xây
dựng ở phương Đông nền văn hóa nông nghiệp kỳ vĩ. Tiếng Việt là chủ thể tạo nên
tiếng Trung Hoa. Chữ tượng hình của người Việt là chủ thể làm nên Giáp cốt văn.
Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Nhạc, Kinh Lễ… là của người Việt. Những gì
tốt đẹp nhất của văn minh Trung Hoa đều được khởi nguồn từ văn hóa Việt! Đấy là
phát kiến vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vào đầu kỷ nguyên này.
Vì vậy, cuốn sách trong tay bạn không chỉ thay đổi
lịch sử phương Đông mà còn làm thay đổi số phận dân tộc Việt. Nó là vũ khí vô
địch giúp dân tộc Việt tự giải phóng khỏi cái bóng Trung Hoa không chỉ vể lịch
sử, văn hóa.
Hôm nay, với lòng tin yêu, tôi trao nó vào tay bạn!
Trung
Thu năm Giáp Ngọ
Hà
Văn Thùy
Ngày Bảo Quang Hoàng Đạo, tháng Hai Ất Mùi 2015
Trung Tâm Phục Hưng Văn Hóa Việt và Đạo
Việt
Thư Quán An Vi
“Cứu Nước Bằng Văn Hóa”
M: +84904898957
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét