015002 ĐẠP THANH TRONG TIẾT THANH MINH
Thanh
minh trong tiết tháng ba
Mùa xuân gắn với nhiều lễ hội.
Lễ hội là một thông ngữ với đặc trưng lưỡng nhất tính, hiểu là lễ và hội. Lễ
nghĩa là cung và kính. Cung là trọng
mình (tự trọng), Kính là trọng người
(tôn trọng người khác). Lễ là một từ rất đẹp và trọn nghĩa. Lễ nói lên tâm trạng
của con người trước trời đất, thần linh, sự việc, con người. Đây cũng là thái độ thể hiện đạo hiếu,
tri ân, xám hối… trong phép ứng xử của văn hóa tâm linh Việt Nam .
Hội là sự hội tụ, đoàn tụ, đoàn viên của
gia đình, dòng tộc, bạn hữu, làng xã, cộng đồng và toàn xã hội. Hội luôn mang ý
nghĩa tốt đẹp trọn vẹn, hướng thiện, chia sẻ, vui vẻ, hân hoan, náo nức, hy
vọng…
Lễ hội vừa thiêng liêng, trang nghiêm, vừa
tràn đầy niềm vui, thỏa thích, giải tỏa lo âu muộn phiền để xả hơi. Lễ hội bắt
nguồn từ thời thái cổ đến khi nền văn minh lúa nước phát triển, mùa màng bội
thu, cuộc sống no đủ. Cái sự sinh và sự dưỡng được tôn thờ thông
qua các lễ nghi và hội hè. Từ đó tín ngưỡng thờ cúng được nâng lên bằng những
hoạt động phong phú, đa dạng, lễ hội ngày càng phát triển trở thành tiềm thức
cộng thông và lưu truyền đến ngày nay.
Trở lại với câu thơ của Nguyễn Du
trong Kiều nhân tiết Thanh Minh. Có hàng
chục lời bình và chú giải câu thơ, đặc biệt là câu tám chữ, chưa lời bình giải
nào mở được nút thắt “đạp thanh”.
Có trích dẫn lên tới mười nghĩa của từ “đạp”. Xin trích dẫn: “Thật ra từ “đạp”
trong tiếng Hán có 10 nghĩa thông dụng: 1) giẫm lên; 2) đập nhịp; 3) lê chân;
4) bước qua; 5) du ngoạn; 6) đi theo; 7) tìm hiểu tại chỗ; 8) đá chân; 9) áp
sát; 10) thứ lót chân như thảm.” (Tôi hỏi, tại sao Phạm Thị Hảo (tác
giả của bài viết) không tìm sự giải nghĩa trong tiếng Việt?). Có lẽ vì lý do
này mà từ “đạp” bị bỏ xót một nghĩa
quan trọng và là chìa khóa mở cái nút thắt nói trên. Chúng ta cùng nhau quan
sát trong đàn gà khi anh gà trống “đạp” chị gà mái. Chưa hết.
Câu chuyện sẽ được lý giải trong các lễ
hội truyền thống xưa ở các cộng đồng người Việt cổ, mong cho mưa thuận gió hòa,
mùa màng bội thu, sinh sôi nảy nở… trong các lễ tế xuân, mừng cơm mới, trống
quân, diễn xướng dân gian… Sau phần lễ là phần hội, phần này chủ yếu là các đôi
trai gái giao duyên, hát vè, hát đối… tiếp đến là các đôi kết duyên nhau, cặp
kè từng đôi, từng đôi hợp thân trên cỏ hay bên bờ ruộng lúa. Đến đây chúng ta
đã giải mã được “đạp thanh”, tức đạp nhau trên cỏ.
Nhân đây, xin trình bày những nội dung cơ
bản trong các lễ hội của người Việt cổ xưa, thể hiện trong lễ hội Trống Quân:
- Bàn thờ là trống
đất, trống trời thay cho non và nước khi hoàn cảnh không cho phép có;
- Tư
tế là hai bè nam nữ mặc áo đẹp ngày lễ;
- Còn Tế là sự đấu của hai bè: đấu
ca, đấu lý, đấu tình;
- Rồi tới Giao hợp được coi
là cái đinh của cuộc lễ biểu thị sự phối hợp cao độ nhất mà con người có thể
hiện thực: nên non phải trèo, nước phải
lội, người phải giao. Ông Granet gọi là “chịu
lễ giao tình“ (communion sexuelle). Cuối cùng có cuộc đại ẩm
làm như nghi lễ Giao thoa với Đất. Tất cả được gọi là bôn tức lối cưới hỏi trực tiếp không có
dạm ngõ, ăn hỏi: gạ hỏi thằng không môi giới, lẫn làm thẳng, tức hợp thân
liền, với niềm tin rằng, năm nào không có “bôn“
thì sẽ mất mùa. Niềm tin này thuộc giai đoạn bái vật sau sẽ thăng hoa và
truyền sang cho vua: đức hạnh ông vua ảnh hưởng đến thời tiết. Cả hai niềm tin
là một, cùng thuộc tín ngưỡng phong nhiêu và ở đợt bái vật, lợi hành. Nói dân
gian là công thể (toàn dân chịu trách nhiệm) đến khi quy tụ vào vua thì một
mình vua chịu trách nhiệm về việc mưa gió, nóng lạnh, nhưng rồi niềm tin đó sẽ
được thăng hoa tới đợt triết lý là giúp trời đất trong việc hóa dục.
Đó là một tiến trình đi lên, muốn hiểu
đựơc ý nghĩa cần tới bầu khí bao quanh Trống Quân. (X. Trống Quân trên anvile235.blogspot.com).
Lê An Vi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét