Thứ Hai, 5 tháng 10, 2020

02005b THÁNH GIÓNG

 


02005b

II. TRUYỆN THÁNH GIÓNG hay PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

TINH THẦN BẢO QUỐC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 


        Câu chuyện về Phù Đổng Thiên vương trong Lĩnh Nam chích quái được hợp nhất với Sóc Thiên vương của Việt điện u linh tập.

        Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận Bắc phương. Vua nhà Ân (1766 TCN - 1122 TCN) mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng: "Sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp!" Vua nghe lời, bèn lập đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày. Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng không nói năng. Vua nhân hỏi: "Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp". Cụ già ngồi im một lúc, rút thẻ ra bồi, bảo vua rằng: "Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy".

Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau, người biên giới cấp báo có giặc Ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói dỡn rằng: "Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm". Người con nghe thấy mẹ nói, đột nhiên bảo: "Mẹ gọi sứ giả tới đây". Người mẹ rất lấy làm kinh ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ giả hỏi: "Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?".

Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: "Mau về tâu với vua rèn một ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải lo gì nữa?"

Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói rằng: "Ta không lo nữa".

Quần thần tâu: "Một người thì làm sao mà đánh bại được giặc?" Vua nổi giận nói: "Lời nói của Long Quân ngày trước không phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón".

Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng: "Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo". Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân nhà Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy cao hơn 10 thước, ngửa mũi hắt hơi liền hơn mười tiếng, rút kiếm thét lớn: "Ta là thiên tướng đây!" rồi đội nón cưỡi ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy mắt đã tới trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy Thiên tướng rồi cùng đến hàng phục. Ân vương bị chết ở trong trận.

Đi đến đất Sóc Sơn huyện Kim Hoa, Thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà Ân đời đời, 644 năm không dám ra quân.

Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ.

Có bài thơ rằng :

Vệ Linh năm tháng đám mây nhàn,

Muôn tía ngàn hồng chói thế gian,

Ngựa sắt ở trời, danh ở sử,

Uy linh lừng lẫy khắp giang san.

 

( Lĩnh Nam chích quái: Trần Thế Pháp, bản dịch của Lê Hữu Mục, trang 55 – 57 )

 

Phù Đổng Thiên Vương

 

Sáu đời Hùng vận vừa suy

Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài

Làng Phù Đổng có một người

Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ

Những ngờ oan trái bao giờ

Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân ( 1 )

Nghe Vua cầu tướng ra quân

Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang ( 2 )

Lời thưa mẹ : “ Dạ cần vương ( 3 )

Lấy trung làm hiếu , mọi đường phân minh

Sứ về tâu với triều đình

Gươm vàng ngựa sắt đề binh tiến vào ”

Trận mây theo ngọn cờ đào

Ra uy sấm sét nửa chiều giặc tan

Áo nhung cởi lại Linh San ( 4 )

Thoắt đề thoát nợ trần hoàn lên tiên

Miếu đình còn dấu cố viên ( 5 ) 

( Đại Nam quốc sử diễn ca )

          Chú thích

( 1 ) Gió mây : Dịp tốt để thi thố tài đức

( 2 ) Khảng khái .

( 3 ) Đánh giặc giúp vua .

( 4 ) Núi Sóc Sơn , còn có tên là Vệ Linh Sơn , thuộc tỉnh Phúc Yên.

( 5 ) Vườn cũ : tức là làng Phù Đổng , tỉnh Bắc Ninh

 

          Kinh Phù Đổng

       “Vào thời vua Hùng, có giặc Ân xâm lấn nước ta. Vua Hùng làm đủ cách nhưng vẫn không ngăn được giặc. Nhà vua liền lập đàn cầu Tổ về giúp. Trong một cơn mưa to gió lớn, bổng có một cụ già mặc áo đỏ, hình dung cổ quái, đến đùa dỡn với đám trẻ con ở ngả ba đường.

Dầu thấy lạ vua Hùng cũng đến xin Cụ chỉ cách để cứu nước. Cụ cười bảo: Nhà vua hãy sai sứ đi khắp nơi mà tìm. Theo lời Tổ dạy, vua Hùng liền sai người chia nhau đi khắp nơi để loan tin Tổ về và tìm người cứu nước. Đang khi đó, tại làng Phù Đổng có một em bé đã 3 tuổi mà không biết đi đứng nói cười gì cả. Nhưng khi nghe sứ vua rao tin. Cậu liền bật nói. Cậu xin sứ cho cậu một con ngựa sắt, một cái roi sắt để cậu phá giặc. Từ đó láng giềng đem gạo vải tới giúp cậu ăn mặc, và cậu lớn như thổi.  Khi sứ vua đem ngựa và roi sắt tới, cậu bé Phù Đổng vươn vai thành người cao lớn. Khi cậu nhảy lên ngựa sắt, ngựa liền cử động và phun lửa. Với ngựa lửa roi sắt, cậu đánh giặc một trận tơi bời. Khi roi sắt gãy, cậu nhổ tre mà đánh. Ngựa cũng phun lửa cháy mất mấy làng. Giặc tan, cậu bỏ gốc tre lại, và cưỡi ngựa lên núi mà về trời. Cả một gốc tre bỏ lại sau hoá thành tre lá ngà. Vua Hùng phong cậu là Phù Đổng Thiên vương. “   

( Nam Thiên : Kinh Việt, Hoa Tiên Rồng, trang 271 – 272 )

  Khai triển

Đây là đề tài chống giặc giữ nước của Vua Hùng.

1. Sự chuẩn bị xa

        Khi phát hiện ra ý đồ xâm lược của giặc Ân, Vua Hùng liền triệu tập quần thần lại để thống nhất ý kiến của quần thần về việc chống giặc giữ nước.

2. Hội nghị triều đình

        Đây một thứ hội nghị Diên Hồng cấp cao gồm những tay mưu sĩ, để tìm ra phương kế hay để chống giặc và trước hết để tìm cách huy động sự nhất trí của triều đình và nhân dân.

3. Lập đàn cầu Tổ

        Vua Hùng đắp đàn trai giới, dâng lễ vật và đốt hương cầu tế 3 ngày đêm. Tại sao phải cầu đảo Vua lạc Long và để làm gì? Vua Hùng còn nhớ rõ bên tai, khi Mẹ Tiên chia tay với Cha Rồng, đem con lên núi lập quốc, Cha Rồng đã căn dặn: khi cần thì gọi, Ta về ngay”.

        Cầu Tổ trước hết là vâng lời căn dặn của Tổ, vì Tổ chính là niềm tin, là Hồn thiêng Sông Núi, và là trụ bám của cả dân tộc. Tổ Lạc Long là loài Rồng, là Tổ tiên của Việt tộc đã khai sáng ra nước Văn Lang, một nước rất thịnh trị .

        Rồng là loại mưu trí biến hoá khôn lường, ẩn nhận vô song và hùng dũng khôn tả. Cầu xin Tổ là để được tiếp hợp với sức sống dũng mạnh của Tổ tiên, để làm tuôn trào mạch sống của dân tộc. Tổ là gốc, là khởi điểm và cũng là tụ điểm của toàn dân, có kết hợp được với sức sống Tổ thì mới quy tụ con dân về một mối, để có sức mạnh tổng hợp của toàn dân. “Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, thì toàn con dân Việt nhất trí dưới sự phù trợ của Tổ tiên, chắc chắn sẽ có sự biến hoá khôn lường và hùng dũng khôn tả của Vua Lạc .

Làm được việc đó thì giặc nào cũng bị ta đánh bại. Cầu Tổ để được soi sáng để được phù trợ là vậy.

4. Tổ hiện ra

        Sự thành khẩn của Vua Hùng đã đem lại cảnh “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” giữa con cháu và Tổ tiên, lẽ nào Tổ chẳng hiển linh mà phù trợ. Quả nhiên, sau khi cầu đảo, trời chớp sấm mưa, Tổ mới hiện ra dưới dạng của một ông già, tướng mạo kỳ dị, ngồi ở ngả ba đường nói cười, ca múa. Tổ hiện ra trong lúc trời mưa sấm chớp là dấu chỉ cho Vua Rồng để cho con dân Việt nhận ra Tổ là Lạc Long đó, chứ không phải quỷ ma hiện hình. Tổ có hình giáng dị kỳ để cảnh tỉnh mọi người kể cả Vua, đây là việc hết sức nghiêm trọng, không được vì khiếp nhược hay vô trách nhiệm mà để mất nước cho giặc. Tổ không hiện ra nơi lập đàn, mà hiện ra nơi ngả ba đường, là nơi tụ họp của người dân, đó là lời nhắn nhủ với nhà Vua là phải đi ra vận động với toàn dân mà cứu nước. Tổ nói cười ca múa là dấu chỉ Tổ muốn an ủi con cháu là phải lạc quan, phải tin tưởng, vì có ta phù trợ, mọi người đừng có lo sợ, mà quyết tâm cứu nước. Khi dạy bảo xong, Tổ lại biến mất vào không trung như Rồng.

5. Lời dạy bảo của Tổ

        Khi vấn kế, Tổ bảo với Vua Hùng: 3 năm nữa giặc mới tới đánh, nay phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ tốt, tìm khắp trong thiên hạ cho ra người có tài cứu nước. Còn 3 năm nữa giặc mới tới đánh, thì Vua Hùng mới đủ thời gian để sắm sửa khí giới và huấn luyện binh sĩ. Điều này chứng tỏ Vua Hùng biết lo xa. Rảo khắp thiên hạ mà tìm người tài ba ra cứu nước. Thực ra là công cuộc vận động toàn dân, kẻ góp công người góp của, những thanh niên trai tráng, phải chuẩn bị sẵn sàng để chống giặc, khi cần, giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh.

6. Kế sách chống giặc của Vua Hùng

          - Thống nhất ý chí chống giặc của các vua quan.

          - Cầu xin Tổ để được soi sáng, phù trợ, để chuẩn bị kế sách sẵn sàng chống giặc, nhất là phương cách quy kết toàn dân về một mối.

          -Vận động toàn dân, kẻ góp công người góp của, và các thanh niên trai tráng sung vào binh lực và sắm sanh khí giới mà chống giặc.

7. Công việc chuẩn bị và tổng phản công giặc

          - Kế sách Vua Hùng đã có, nay chỉ cho các sứ giả đi khắp thiên hạ trong nước vận động toàn dân góp công, góp của, mà nuôi sức người Phù Đổng.

          - Đi tìm mỏ sắt đúc khí giới, đúc ngựa sắt, đúc nón sắt, tức là chuẩn bị quân nhu và quân cụ. Triều đình nhất trí, toàn dân kết thành một khối, binh sĩ đã được tôi luyện, khí giới đã sẵn sàng, thì tới giai đoan Tổng phản công.

8. Lệnh tổng phản công

        Khi đã nhập vào được nguồn sống qua Tổ, toàn dân đã lấy lại được niềm tin, toàn dân kết thành một khối, vua quan và quân dân một lòng, trăm người như một quyết tâm đuổi giặc, mọi người đem hết khả năng, phương tiện cho công cuộc cứu nước. Với sức mạnh tổng hợp của toàn dân, thì những đòn sấm sét đó không giặc nào chống đỡ nổi. Chỉ chờ quân giặc tới, nhà Vua ra lệnh tổng phản công là toàn quân toàn dân toàn diện vùng lên mà phản công giặc, đó là con nhà trời vùng lên tiêu diệt giặc.  Toàn thắng đã nắm chắc trong tay nhân dân rồi.

9. Con người Phù Đổng

          - Em bé Phù Đổng đã 3 năm mà chỉ nằm ngửa, không nói, không cười, là hiện thân của Vua Lạc khi còn ẩn nhận nằm sâu dưới lòng biển khơi, còn đợi cho đến lúc được sung mãn về mọi mặt, nên chưa tỏ rõ mình ra. Đây là con người anh hùng khi “gặp khúc lươn”, nên đang ẩn nhận cuộn lại cho vắn”.  ( Số 3 chỉ con Người Nhân chủ: tự Chủ, tự Lực, tự Cường .)

          - Gặp khi cần thiết, nhất là khi quốc gia lâm nạn, thì mới đến giai đoan Khi vươn thì dài.  Thật ra con người Phù Đổng không chỉ là em bé lạ lùng, đến 3 tuổi mà không nói, không cười, không đi, rồi đột nhiên được cung cấp mọi thứ cần thiết là lớn lên như thổi, có sức mạnh phi thường, nên đó phải là một em bé dân tộc Việt, được toàn dân đóng góp mọi thứ để cho lớn lên, thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn dân Việt trở thành một Phù Đổng .

        Phù Đổng là cả nước đánh giặc. Phù Đổng là tập hợp của những Con Người Nhân Chủ ( số 3 ), hết sức tự Lực tự Cường.  Để toàn dân trở thành Phù Đổng thì thời gian chuẩn bị ít nhất cũng 3 năm. Phù Đổng thật là con dân của Lạc Long và cũng miêu duệ của Bàn Cổ, nên có tài biến hóa :

Anh hùng khi gặp khúc lươn,

Khi cuộn thì vắn , khi vươn thì dài. 

          - Vì không là Phù Đổng cá nhân, mà là Phù Đổng tập thể, nên khi đã đánh xong giặc thì ai về nhà nấy, nào đâu phải là người đánh giặc thuê mà ngồi đợi chức tước và hưởng bổng lộc một mình. Nhưng tất cả Phù Đổng của dân việt đều chạy đến núi Việt Sóc, cởi áo ( làm xong nhiệm vụ ) mà siêu về miền An việt, tức là cuộc sống an bình hạnh phúc trong mọi xóm làng.  Quả thật Phù Đổng là những trai hùng gái đảm của Việt tộc, những con người Nhân chủ, đầy nhân trí dũng, luôn luôn biết tự lực tự cường.

10. Bộ Huyền số của Việt tộc

“ Có bản chỉ nói Hùng Vương, có bản lại nói là Hùng Vương thứ 6, thế là sai với toàn bích nói đến số 3 năm lần: Cầu đảo 3 ngày, Ngồi ở ngả 3 đường, 3 năm giặc mới đến, 3 năm sau, Trẻ 3 năm mới nói. Như vậy thì ẩn ý trong số 3 đã quá rõ.

Có bản nói ông già cao hơn 9 thước thì đúng hơn, vì tự 3 tới 9 là bộ huyền số đi đôi.

50 cân sắt làm sao đủ để đúc ngựa, kiếm, mũ?  Trẻ đứng lên cao hơn 10 trượng, nhảy mũi hơn 10 tiếng:  Ta có 2 lần: 10 = 2 . 5 .    Vậy quả ta có bộ huyền số: 2 , 3 , 5 , 9 , đó là bộ số của văn hoá Việt tộc “ .                                    

( Kim Định : Kinh Hùng khải triết, trang 186 )

 

11. Ca dao tục ngữ

Gương Trai hùng

 

Trong dậy, ngoài lậy.

 

Lạt mềm buộc chặt hơn mây.

 

Anh hùng khi gặp khúc lươn

Khi cuộn thì vắn , khi vươn thì dài.

 

Đã sinh ra kiếp đàn ông,

Đèo cao núi thẳm sông cùng quản chi.

 

Mạnh mà mềm dẻo mới nên,

Khác gì dòng nước chảy trên sông ngòi.

 

Trượng phu không nhiễm thói trần,

Không sợ nghèo khó, không thân sang giàu.

 

Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo,

Khi nên trời giúp công cho,

Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.

Trời sinh trời chẳng phụ nào,

Công danh gặp hội anh hào ra tay,

Trí khôn rắp để dạ này,

Có công mài sắt, có ngày nên kim.

 

Đã sinh ra ở trong Trời Đất,

Phải có danh gì với núi sông.

( Nguyễn Công Trứ )

 

Huyết khí chi Dũng, bất khả hữu.

Nghĩa khí chi Dũng, bất khả vô.

Cái Dũng của huyết khí, không nên có,

Cái Dũng của Đạo lý, không thể không ).

 

Mẫu gái đảm

Canh một dọn cửa dọn nhà,

Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm,

Canh tư bước sang canh năm.

Trình anh dậy học chớ nằm làm chi,

Nữa mai chúa mở khoa thi

Bảng vàng chói lọi, kìa đề tên anh

Bỏ công cha mẹ sắm sanh,

Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.

 

Xin chàng kinh sử học hành,

Để em cày cấy, cửi canh kịp người.

Mai sau xiêm áo thảnh thơi,

Ơn giời lộc nước, đời đời hiển vinh.

 

Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,

Nay anh học gần, mai anh học xa,

Tiền gạo thì của mẹ cha,

Cái nghiên cái bút, thật là của em.

 

Em là con gái Phụng Thiên,

Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng,

Nữa mai chồng chiếm bảng vàng,

Bỏ công tẩm tưới vun trồng cho rau.

 

Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu,

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa .

 

Đôi bên bác mẹ cùng già,

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông,

Mùa Hè cho chí mùa Đông,

Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi,

Hết gạo thiếp lại gánh đi,

Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao,

Hỏi thăm đến ngỏ thì vào,

Tay đặt gánh xuống, miệng chào thưa anh.

Từ khi em về làm dâu,

Anh thì dặn trước bảo sau mọi nhời,

Mẹ già dữ lắm em ơi,

Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha,

Nhịn cho nên cửa nên nhà,

Nên kèo nên cột, nên xà tầm vông

Nhịn cho nên vợ nên chồng ,

Thời em coi sóc, lấy trong cửa nhà,

Đi chợ thì chớ ăn quà,

Đi chợ thì chớ rề rà ở trưa.

Dù ai bảo đợi bảo chờ,

Thời em nói dối con thơ em về.

 

Anh ơi ! phải lính thì đi

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em,

Tháng chạp là tiết giồng khoai,

Tháng hai giồng đậu, tháng ba giồng cà ,

Tháng ba cày vở ruộng ra,

Tháng tư gieo mạ thuận hoà mọi nơi,

Tháng năm gặt hái vừa rồi,

Giời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng,

Anh ơi! giữ lấy việc công,

Để em cày cấy, mặc lòng em đây.

 

Anh đi, em ở lại nhà,

Hai vai gánh vác, mẹ già con thơ,

Lầm than bao quản ( muối dưa ) nắng mưa,

Anh đi, anh lựa chen đua với đời .

      Thánh Gióng

Là tinh thần An Vi, tức hành động an nhiên tự tại, làm mà không để cho mình bị trói buộc vào hậu quả. Thấy đáng làm là làm, làm cực hăng say mà không để trọn tâm trí vào công hiệu như ở đợt lợi hành. Ông tổ của triết lý An Vi chính là Thánh Gióng. Thánh Gióng chỉ là một trẻ thơ ba năm chưa biết nói, nghĩa là không cần nói mà cần làm, và làm những việc lớn lao cao cả như thương nước yêu nòi, thấy giặc Ân xâm lăng đất Tổ thì ra đánh, đánh tận tình, đánh hăng say đến độ nhổ cả từng cụm tre già vất vào mặt giặc. “Đứa thì sứt mũi, sứt tai. Đứa thì chết chóc vì gai tre ngà”. Nhưng khi thắng trận rồi lại không màng công danh, bổng lộc, không để ý đến cả ca khúc khải hoàn mà vụt bay lên trời.

Thánh Gióng hóa ngày mùng Chín tháng Tư, tức là số Chín Trời đặt trên số Bốn Đất và vị Thánh, là sự biến đã đạt Tam Tài Thiên Địa Nhân hợp nhất kỳ diệu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...