Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Cảnh tỉnh trí thức

013063                          Cảnh tỉnh Trí thức

CHÍNH DANH CÁC PHẠM TRÙ VĂN HÓA
Lê Việt Thường

"... những Phạm Trù Văn Hóa “MỚI“  được “mô tả“ bằng những Từ Ngữ như “Giai Cấp“, “Ý Thức Hệ“, “Giáo Lý”, “Giáo Điều”, “Tín Điều”… được “du nhập” vào Xã Hội VIỆT mà giới Trí Thức Việt chưa kịp thời “tiêu hóa“! Mà có lẽ   hệ quả của điều trên là Chiến Tranh, Tang Tóc  đã đến với Dân Tộc  chúng ta  chăng?!"

 DẪN NHẬP
Phần trình bày trên cho thấy là sau hai cuộc Thế Chiến và một loạt chiến tranh Thuộc Địa, giới Trí Thức Tây Phương, ít nhất ở tầng cao cấp nhất trong lãnh vực Tư Tưởng, Triết Học, không còn giữ được sự Tự Tin như ở suốt thế kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20. Khi mà họ còn tin rằng nền Văn Minh Tây Phương sáng chói kia với vũ khí “vô địch” là Khoa Học không phải chỉ  là “sản phẩm” của Thời Thế, mà thực sự bắt nguồn từ  chính bản chất của nền Văn Hóa của họ. Và họ, người Tây Phương  tự cho có “sứ mạng” đem truyền bá khắp năm châu nội dung của nền Văn Minh rực rỡ đó! Trên thực tế, chính nền Văn Minh  ấy, mặc cho các Tiến Bộ vật chất mà nó đem lại cho con người , cũng là nguyên nhân của biết bao tai ương, loạn lạc, khổ đau ….“đổ ập” “trên đầu trên cổ” của toàn thể Nhân Loại nhất là các dân tộc nhược tiểu! Đó có lẽ là lý do chính yếu khiến một Hội Nghị Thế Giới về Triết Học đã được gấp rút triệu tập lần đầu tiên vào năm 1939 và lần thứ nhì vào năm 1949 tại Honolulu, nhằm tìm cách giải quyết cuộc Khủng Hoảng Văn Hóa nêu trên, mà kết quả là Nho Giáo đã hân hạnh được trao phó trọng trách Giàn Hòa hai nền Văn Hóa và Triết Học Đông-Tây hầu sửa soạn cho một cuộc Phục Hưng Tư Tưởng của Nhân Loại. Trong khi đó đại đa số trong giới Trí Thức VIỆT không mảy may hay biết gì về biến cố nêu trên, hoặc nếu có người nghe nói đến (một thiểu số rất nhỏ) thì cũng không ý thức được tầm  quan trọng của sự việc! Có người đến tận hôm nay, tức 60, 70 năm sau hai lần Hội Nghị nêu trên vẫn không hay biết rằng Nho Giáo đã thực sự HỒI SINH không những tại Việt Nam và Viễn Đông, mà còn trên các Diễn Đàn Tư Tưởng  Khoa Học, Triết Học ở cấp  Quốc Tế, nên vần còn  đặt câu hỏi “dài dài”  về “số phận” của Nho Giáo???!!! (1)
Trước khi tiếp tục tìm hiểu Biến Cố “ngoạn mục” nêu trên, có lẽ cần phải điều chỉnh  ý nghĩa của một số Từ Ngữ, Quan Niệm “du nhập” từ Văn Hóa Tây Phương nhưng khi áp dụng thì có vẻ “không được chỉnh lắm” vào đồng văn, “môi trường” của nền Văn Hóa VIỆT, cũng như  thử đề nghị một số Tiêu Điểm đúng đắn cần phải áp dụng  khi So Sánh trong lãnh vực Văn Minh vvv.

I) ĐIỀU CHỈNH Ý NGHĨA CÁC TỪ NGỮ “NHẬP CẢNG”
Sở dĩ chúng tôi thử đề nghị các việc trên vì chợt nhớ đến thuyết CHÍNH DANH của Khổng Tử cũng như có niềm thâm tín rằng đó là những  việc quan trọng cần phải thực hiện. Lý do là sự sử dụng không được chính xác một số Từ Ngữ “nhập cảng” có lẽ bắt nguồn từ sự lầm lẫn do nội dung khác nhau của các nền Văn Hóa, sẽ đưa tới những hậu quả đáng tiếc.  Thật vậy, người ta thường sử dụng một cắch không “cân nhắc” những Từ Ngữ  được “du nhập ” từ  văn hóa Tây Phương như “Giai Cấp”, “Ý Thức Hệ”, “Giáo Lý”, ‘Giáo Điều”, “Tín Điều”… vvv… nhất là mỗi khi vấn đề  liên hệ tới  Nho Giáo.
A) CÁC TỪ NGỮ QUAN TRỌNG
1) GIAI CẤP
Trong giai đoạn vừa qua, chúng ta thường hay nghe nói đến từ ngữ “Giai Cấp” có lẽ do ảnh hưởng của Hegel với quan niệm về Lịch Sử của ông ta được suy diễn từ thực thể Âu Tây vốn xây trên liên hệ CHỦ-NÔ. Quan niệm sau này được Karl Marx thổi phồng  để đưa lên làm  lối giai cấp đấu tranh và được thúc đẩy cùng cực, đến nỗi  chỗ không có giai cấp cũng cố tạo ra để biện minh cho đấu tranh vô lý.(2)
Tuy nhiên, ý niệm “Giai Cấp” (Classe)  có thể áp dụng cho văn hóa Tây Phương, cũng như  ý niệm tương tự là “Đẳng Cấp” (Caste) có thể áp dụng cho văn hóa Ấn Độ. Văn hóa Ấn Độ chẳng hạn có tính cách Thần Bản vì phải  quy chiếu vào Thần, và dựa trên NIỀM TIN rằng con người tùy nơi phát xuất mà có địa vị cao thấp trong xã hội:  nếu phát xuất bởi miệng Brahman là Tăng Lữ, bởi tay là Quân Nhân, bởi bụng là Thương Gia, bởi chân là Công Nông.  Còn nếu không bởi Thần thì là Vô Loại, là “Paria” (khoảng hơn nửa dân số)  như tất cả dân Dravidien.
Bên Tây Phương, thời xưa ở Hy Lạp và La Mã, chỉ có hai Giai Cấp: CHỦ và NÔ. Chủ gồm giới Quý Tộc tùy thời chiếm khoảng từ 10% đến 20% , số còn lại là Nô. Xã hội Âu Tây thời Trung Cổ cũng đặt trên nền tảng liên hệ Chủ-Nô trước, rồi Lãnh Chúa-Nông Nô sau, nhưng tựu trung cũng là Chủ-Nô.
Trên nguyên tắc, xã hội Âu Tây xưa gồm có 3 giai cấp: Quý Tộc (noblesse), Tu Sĩ (clergé), Đệ Tam Cấp (tiers état), nhưng ở thời Trung Cổ, những người Nông Nô (Serf) không được sắp xếp vào “Đệ Tam Cấp” là giai cấp bao gồm nhiều thành phần hỗn tạp như quân nhân chuyên nghiệp, những người làm nghề tự do như thương gia, công nghệ  và  những chủ điền không vướng dịch vụ như lãnh chúa vvv. Trên thực tế, do lối bầu cử bất công vì chỉ dựa trên Tiền Bạc gọi là “Centuric”: ai có nhiều tiền thì được làm công dân, càng có nhiều “trăm ngàn” càng được bỏ nhiều phiếu, do đó quyền hành ở “Đệ Tam Cấp” cuối cùng rơi vào tay các “đại trưởng giả” hoặc “đại điền chủ”!(3) Để so sánh, ở cấp làng xã Việt xưa, trong lãnh vực Bầu Bán,  KHÔNG có yếu tố Dòng Tộc hay Tiền Bạc xen vào. Yếu tố duy nhất được áp dụng là Tuổi Tác: “Bất kỳ ai đến 50 tuổi đều được vào Hội Đồng Kỳ Mục”. (4)
Tóm lại,  ở thời trước, tình trạng Nô Lệ hiện hữu ở cả bên Ấn Độ lẫn Tây Phương với chế độ Đẳng Cấp (Caste) bên Ấn Độ và chế độ Giai Cấp (Classe) bên Tây Phương. Ở hai nơi này, tình trạng Nô Lệ được Tín Ngưỡng hoặc Pháp Luật hỗ trơ để trở thành CHẾ ĐỘ, vì đó là những gì được tin là linh thiêng trường cửu vượt quyền hạn cá nhân. Do tự bản chất, tính Đẳng Cấp bên Ấn Độ hay tính Giai Cấp  bên Tây Phương tỏ ra  rất CỨNG NGẮT, tức trừ những trường hợp rất họa hiếm, ai sinh ra ở Giai Cấp hay Đẳng Cấp nào thì ở vậy suốt đời. Cá nhân dù giàu sang hay thông minh giống như triết gia Epitecte  chẳng hạn vẫn không thoát khỏi kiếp  Nô Lệ, nếu như (trường hợp của ông) lỡ sinh ra trong giới này!
Trái lại, theo Cố Triết Gia Kim Định, Nho giáo nhất là VIỆT NHO với nền Triết Lý Công Thể chủ trương tất cả là con một Mẹ, cùng trong một đại gia đình, đủ sức bao dung khắp hết: “Trăm con Mẹ Âu đều phương trưởng đồng đều” [cho nên  xã hội đã dựa trên Ngũ Luân (vợ chồng, cha con, vua tôi, anh em, bè bạn) chứ không phải trên một “luân” duy nhất là Chủ-Nô như bên Tây Phương] thì việc chi phải phân chia về quyền lợi: dẫu là “Sĩ-Nông-Công-Thương“ thì chì là chuyện PHÂN CÔNG trong việc làm, chứ tuyệt đối không phải đặc ân dành cho nhóm này, thành phần kia để mà tranh đấu đặng bảo vệ quyền lợi riêng rẽ”.(5)
Vậy nên, Cố Triết Gia sử dụng từ ngữ PHẨM TRẬT hay Tôn Ti  (Hiérarchie) để gọi lối Phân Công  “Sĩ-Nông-Công-Thương”, chứ KHÔNG dùng từ ngữ  GIAI CẤP (Classe) như có người đã làm, có lẽ vì  họ lẫn lộn lối “phân công” bên Viễn Đông, nhất là Việt Nam với tình trạng “phân chia giai cấp” bên Tây Phương xưa. Lý do là, như đã nói ở trên, Giai Cấp hay Đẳng Cấp có tính chất CỨNG NGẮT (ai sinh ở giai cấp hay đẳng cấp nào thì suốt đời ở như vậy), còn Phẩm Trật hay  Tôn Ti thì co giãn, MỀM DẺO hơn, nhất là  với chế độ THI CỬ (mà các nước Tây Phương đã bắt chước Viễn Đông ở thế kỷ 19, và được  họ xem như là “Tiền Hô” cho  cuộc Cách Mạng Tự Do-Dân Chủ bên trời Tây ). Hệ quả là bên Viễn Đông và Việt Nam , đời nào cũng có “Máu Mới”  từ dân chúng  qua Thi Cử  được ”bơm vào” thành phần lãnh đạo trong  Chính Quyền, do đó Phẩm Trật hay Tôn Ti tránh được nguy cơ sa đọa thành Giai Cấp như bên Tây Phương hay Đẳng Cấp như bên Ấn Độ!
Lẽ dĩ nhiên, trong xã hội VIỆT xưa , cũng có những sự kiện bất công như  hiện tượng “Nô Tì”, “Nô Bộc” … chẳng hạn, nhưng đó là do sự lạm dụng ở cấp Cá Nhân, chứ KHÔNG được Pháp Luật hay Tin Tưởng hỗ trợ như bên Tây Phương hay Ấn Độ trước kia đối với chế độ Nô Lệ. Thật ra, ở thời nào nơi nào, cũng có tình trạng GIÀU- NGHÈO, nhưng trong xã hội Việt Nho, tình trạng trên không kéo dài mãi mãi để biến thành Giai Cấp  như ở các  nơi khác.. Đã vậy còn có những yếu tố làm cho sự xa cách Giàu-Nghèo không quá chênh lệch như tập tục của làng xã Việt  xưa  khuyến khích những nhà giàu có trong làng san sẻ sự giàu sang của họ qua sự đóng góp tiền bạc, của cải vào các sinh hoạt chung để cho những người không được may mắn như họ có cơ hội dự phần vào các dịp vui chơi, hội hè đình đám, và nhất là qua thể chế BÌNH SẢN. Vậy nên, Giàu-Nghèo không trở thành cố định lâu đời để biến thành Giai Cấp. Do đó, mới có câu Ca Dao: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”!
Tóm lại do những lý do vừa trình bày ở trên, đem Từ Ngữ “Giai Cấp” được “nhập cảng” từ văn hóa Tây Phương để áp dụng vào thực thể văn hoá VIỆT thì có vẻ không được “ổn” lắm! Việc này thường do những nhà Nghiên Cứu thiếu óc Triết, vì “Triết là Triệt” nên phải xét vấn đề từ tận Nền Tảng, hầu tránh những  Sai Lầm, Thiếu Sót đáng tiếc nêu trên!  Ngoài ra, “sáng kiến” thay lối Phân Công thông thường “Sĩ-Nông-Công-Thương” bằng “Sĩ-Nông-Công-Thương-Binh” cũng có vẻ “không ổn” lắm. Thứ nhất có lẽ xưa nay chưa có ai làm công việc phân chia như vậy! Kế đến, xã hội VIỆT xưa không có quân đội chuyên nghiệp và chính những người Nông Dân trong thời Bình sẽ trở thành “Binh Lính” trong thời Chiến. “Sĩ-Nông-Công- Thương”, như đã trình bày ở trên , KHÔNG phải là những “Giai Cấp” (theo nghĩa của văn hóa Tây Phương)  vì  “tự thân” không phải là kết quả của tình trạng “phân chia giai cấp” CỨNG NGẮT như bên Tây Phương hay Ấn Độ xưa kia , do đó có lẽ  càng không nên thêm vào đó một “Giai Cấp BINH” mới nữa!
2) Ý THỨC HỆ
Sau “Giai Cấp”, từ ngữ chúng ta thường nghe trong giai đoạn vừa qua là “Ý Thức Hệ” mà giới Trí Thức Tây Học có khi gắn thêm vào đó một từ ngữ khác là “Một Chiều” để trở thành “Ý Thức Hệ Một Chiều” mà họ gán cho Nho Giáo nhằm “cáo buộc” Nho Giáo là nguyên nhân của tình trạng  chậm tiến của các nước Viễn Đông và Việt Nam  trước đây.
Chúng ta có lẽ nên bắt đầu từ Nguyên Nghĩa của từ ngữ để xem có thể gọi Nho Giáo là “Ý Thức Hệ” hay không ? Giáo Sư Francois Jullien thuộc Đại Học Sorbonne chuyên về Triết Trung Hoa có viết một tác phẩm với tựa đề   “ Un sage est sans idée ou l’autre de la philosophie” được dịch ra tiếng Việt là “Minh Triết Phương Đông và Triết Học Phương Tây hay Thể Tạng Khác của Triết Học”. Ông viết:
“Bậc MINH TRIẾT thì VÔ Ý bởi vì ông không dành ưu tiên cho ý nào hết (và do đó chẳng loại bỏ ý nào hết) và ông tiếp cận thế giới mà không phóng chiếu lên đó một ý niệm được suy tính trước nào cả …
Đó là chọn lựa của Minh Triết (đối diện với Triết Học) giữ không định điều gì hết, không đưa ra bất cứ điều gì. Đối diện, nghĩa là nhìn từ Minh Triết, TRIẾT HỌC sinh ra từ chính sự thiên vị khởi nguyên ấy, nó đưa ra trước một tư tưởng, sau đó tư tưởng ấy không ngừng được lấy lại, làm cho biến dạng đi, biến đổi đi, từ đó triết học không có thể làm gì khác hơn là sửa chữa một quan niệm riêng biệt khác- mỗi nền triết học như ta biết, lại phủ nhận nền triết học trước đó…” (6)
Đó có lẽ là nguyên nhân của mọi thứ DUY (duy lý, duy tâm, duy vật, duy niệm, duy linh…..vvv…..) là căn bệnh MỘT CHIỀU trầm kha của văn hóa Tây Phương.
Và theo F. Jullien, sự KHÁC BIỆT Nền Tảng giữa Minh Triết và Triết Học là sự kiện Minh Triết thì VÔ Ý, còn Triết Học thì khởi nguyên là đưa ra  một TƯ TƯỞNG, mà Tư Tưởng  thì dựa trên Ý NIỆM, Khái Niệm, Quan Niệm vvv. Mà Ý THỨC HỆ (Idêologie) theo nghĩa giản dị nhất, là một hệ thống những QUAN NIỆM và Tin Tưởng thường có tính chất Chính Trị của một nhóm người hay một cá nhân.(7) Như vậy, Ý Thức Hệ trong nguyên nghĩa tức theo nghĩa đầu tiên và nền tảng nhất, xuất phát từ Triết Học là môn Đặc Trưng của văn hóa Tây Phương. Nói cách khác, Ý Thức Hệ trước tiên thuộc Phạm Trù của nền Văn Hóa và Triết Học Tây Phương
Do đó, ngay từ điểm Khởi Đầu, với lối nhìn Toàn Thể mà các lý thuyết nhân văn tân tiến nhất chủ trương cũng như theo ý kiến của các nhà nghiên cứu và tư tưởng gia hàng đầu ngày nay, thì Tinh Hoa của Nho Giáo chính là MINH TRIẾT, chứ KHÔNG phải Ý THỨC HỆ như có người lập luận!
Lẽ dĩ nhiên, theo dòng thời gian, trong mục tiêu phổ biến, truyền bá, Nho Giáo từ tầng cao Minh Triết, đã trở thành TRIẾT LÝ để cho vừa tầm Đại Chúng, cũng như về sau, khoảng thới nhà Tống, với nhu cầu kết hợp với các nguồn lý thuyết khác, đã trở thành “bề thế” đến mức về hình thức có vẻ  giống như một “Hệ Thống TRIẾT HỌC” trong văn hóa Tây Phương. Tuy nhiên,  khác với Tây Phương khi mà Triết Học xuất hiện với Socrates thì cũng đồng  thời đánh mất Minh Triết, trái lại bên Viễn Đông, dẫu vì nhu cầu quảng bá phải mặc hình thức Triết Lý hay “hệ thống Triết Học” như bên trời Tây, nhưng về đàng Nội Dung, Nho Giáo CHƯA bao giờ tách rời nền MINH TRIẾT Uyên Nguyên cả!
Tóm lại, phần trình bày trên cho thấy Nho Giáo trước tiên là một nền Minh Triết, mà nét đặc trưng của Minh Triết là tính HAI CHIỀU Kích, trong khi Ý Thức Hệ có tính cách MỘT CHIỀU. Vậy nên, gán cho Nho Giáo tính chất “Ý Thức Hệ” là một điều Sai Lầm, Mâu Thuẫn  ít nhất ở đợt Nguyên Nghĩa!    
Nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy có người nhận định như vậy, tức xem Nho Giáo là một “Ý Thức Hệ”. Thứ nhất, người phát biểu có vẻ không nắm vững nguyên nghĩa của từ ngữ. Kế đến, đương sự có lẽ muốn ám chỉ tính chất “thiển cận”, “hẹp hòi” của nhà Nguyễn bên Việt Nam đã đưa tới sự mất nước vào tay Thực Dân Pháp, hay của nhà Thanh bên Tàu khiến Trung Hoa bị các cường quốc Tây Phương đến ‘xâu xé” làm nhục ở các thế kỷ trước chăng ?! Và trong những trường hợp tương tự, giới Trí Thức thường đi tìm xem những nguyên nhân Văn Hóa, Lịch Sử nào đã dẫn tới tình trang nói trên.
Và “vật tế thần” mà giới Tây Học nhắm đến trước tiên là Nho Giáo cùng với Khổng Tử. Và những lời “cáo buộc” thông thường là tính ‘Tôn Quân” và “Nệ Cổ” mà họ gán cho Ông. Thật ra, Khổng Tử  có tuyên bố “Hảo cổ mẫn dĩ cầu chi giả dã” (= tôi mến cổ và siêng năng tìm cầu được như vậy). Nhưng cái Ông tìm cầu lại chẳng phải là cái chi khác hơn là Vương Đạo. Khổng ca ngợi Thuấn rằng: “Nguy nguy hồ! Thuấn Vũ chi hữu thiên hạ dã, nhi bất dự yên”(= Cao cả thay Thuấn Vũ nằm giữ thiên hạ mà lòng không tham lam dính bén). Hoặc khen ông Vũ “Tí cung thất nhi tận lực hồ câu húc”(= Cung thất của mình thì bé, nhưng ngòi lạch trong nước thì tân lực sửa sang). Ngày nay, chúng ta vẫn cầu mong ở Việt Nam có được những ông Thủ Tướng, Tổng Trưởng, Giám Đốc … nắm quyền điều khiển việc chung mà lòng không “dính bén“ như vậy, thì Dân đỡ khổ biết mấy!  
Ngoài ta, người ta hay quên rằng Khổng Tử không chỉ chủ trương “Ôn Cố” (gồm những giá trị có tính cách “Vượt Thời Gian”) mà theo sau còn có “vế” thứ hai là “nhi Tri Tân” nữa! Do đó, sự phân biệt hai bình diện NGUYÊN LÝ (Thiên Viên) và GIẢI PHÁP (Địa Phương) có lẽ rất cần  thiết ở đây.
Thí du, Khổng Tử chủ trương “Cầu Hiền Tài” về phương diện Triết Lý là một NGUYÊN LÝ có giá trị “Vượt Thời Gian” . Còn GIẢI PHÁP hay Chế Độ thì có thể tuyển người Hiền bằng phép “Đề Cử Trung Chính” ở thời xưa, hay Thi Cử như từ thời Tùy về sau, hoặc có thể “Đầu Phiếu” như hiện nay. Đầu Phiếu khác với Thi Cử, Thi Cử khác với “Đề Cử Trung Chính”. Nhưng tựu trung đó chỉ là những Giải Pháp từng thời, từng nơi nhằm thể hiện câu ‘Cử Hiền Tài” là Triết Lý, là NGUYÊN LÝ (Thiên Viên) nên có tính chất Bất Biến, còn GIẢI PHÁP (Địa Phương) thì Tùy Thời thay đổi.
Một thí dụ khác “Bất Hoạn Quả Nhi Hoạn Bất Quân” (= Không lo ít của cho bằng lo chia không đều) vẫn luôn là một chủ trương Triết Lý, một NGUYÊN LÝ (Thiên Viên), nhưng trải qua các GIẢI PHÁP (Địa Phương) tùy theo mỗi thời đại có thể là phép Tỉnh Điền đời Chu, Chiêu Điền đời Tấn, Quân Điền dời Hậu Ngụy, Ban Điền đời Đường. Đó là những Chế Độ khác nhau, nhưng mục đích vẫn là xóa bỏ, hay ít ra là giảm thiểu đến mức tối đa cái nạn “người ăn chẳng hết, người lần không ra” mà Nho Giáo gọi là “Hoạn Bất Quân”, lo cái nạn phân phối tài sản không được quân bình. Điều lo này cũng chính là mối lo của chúng ta hiện nay, nhất là đối với tình trạnh Giàu-Nghèo quá chênh lệch ở trong nước.(8)
Ở trên được đưa ra một ít nét của nền Vương Đạo của Khổng Tử (mà chúng tôi đã có dịp trình bày chi tiết hơn trong một bài viết trước đây)(9) với các đặc tính như “Cử Hiền Tài”, “Phú Chi”, “Giáo Chi”, “Lễ Trị’, và “Chữ Tín”….. Khi đem 5 nguyên tắc căn bản trên đây của nền VƯƠNG ĐẠO của Nho Giáo để so sánh với Tinh thần DÂN CHỦ ngày nay mà nội dung đã được học giả Charles Merriam xác định, thì Gs H. Creel cho rằng Khổng Tử đã áp dụng được tất cả các khoản trừ khoản “Ý Dân” hay “Phổ Thông Đầu Phiếu” vì theo ông “ đấy là một điều  chưa có dân nào lúc đó dám nghĩ  tới”(25). Do đó, ông kết luận: Tuy chưa có thể chế Dân Chủ, mà sự cải tổ  của Khổng Tử đã mang tự thân Tinh Thần Dân Chủ. Còn Triết gia H. Keyserling thì cho rằng ngay khoản “Ý Dân” cũng được Nho Giáo thực thi bằng lối “Đầu Phiếu Trường Ốc”(=Scrutin d’école), tức khoa THI CỬ.
Câu hỏi có thể đặt ra ở đây là một cuộc Cách Mạng  tận nền móng như thế mà không trình bày kiểu mới mẻ, lại cứ đưa những người cổ đại xa xôi: Nghiêu, Thuấn, Văn, Vũ mà giới thiệu, sao không nói rõ chủ trương mình là Vương Đạo, là một cuộc “Cách Mạng” hầu có thể tránh mang tiếng là ”Nệ Cổ” chăng ?
Thưa không nên vì lý do sau đây: Hoàn cảnh lúc đó không cho phép làm khác. Vì chủ trương Nho Giáo lúc đó là quá táo bạo, bởi coi thường Thế Tập, tuyên dương Tinh Thần DÂN CHỦ. Nói toạc ra sẽ bị phiền hà rất nhiều (Nhớ gương của Socrates bên trời Tây, vì muốn đi quá nhanh nên đã bị kết án Tử Hình). Nay muốn trình bày khéo léo, Khổng Tử chỉ cần chọn trong các Vua đã qua những người hợp cho chủ trương của mình và tô điểm lên.
Chủ trương đó là đánh đổ chế độ Kế Tử để lập ra chế độ KẾ HIỀN, đặng dễ tìm ra Thánh Vương bất cứ từ đâu đến, không cứ phải dòng tộc sang. Cần Hiền Đức chứ không cần Thế Tập Dòng Họ. Đó là một cuộc Cách Mạng tận nền, vì thế nếu vận động thiếu khôn khéo rất dễ bị vua quan lúc ấy bịt miệng, cho là tai hại … Lúc đó, cái “Mốt” chính là “Theo Cổ”. Đã tuyên bố là “Theo Cổ” mà Khổng Tử còn bị tố cáo là làm hư thanh niên và bị mấy lần nguy đến tính mạng vì phái quyền quý thế tập: hai lần bị vậy ở đất Bồ, đất Khuôn, một lần bị tuyệt lương ở đất Trần, một lần bị ám sát hụt do Hoàn Khôi. (10)  
Tóm lại, phải nắm vững tính chất HAI CHIỀU Kích “Thiên Viên” với “Địa Phương”, “Ôn Cố” với “ Tri Tân”, “Nguyên Lý” với “Giải Pháp” … thì mới hiểu đúng Tinh Hoa của Nho Giáo chính là một nền MINH TRIẾT, chứ không phải là một Ý Thức Hệ “một chiều” như  có người “cáo buộc”!
Phần trình bày ở trên cho thấy rằng về phần Nguyên Nghĩa, Nho Giáo là một nền Minh Triết trong khi Ý Thức Hệ thuộc phạm trù của văn hoa Tây Phương. Về phương diện Lịch Sử cũng vậy, từ ngữ “Idéologie” (=Ý Thức Hệ) đã được Triết Gia gốc Pháp Antoine Destutt de Tracy đặt ra. Ông này còn được gọi là “nhà Ý Thức Hệ”(=Idêologue) nữa, tìm cách cải tổ xã hội Pháp ở giai đoạn Hậu Cách Mạng 1789  theo loại Tư Tưởng Thực Dụng.
Còn ý nghĩa Thời Mới của Ý Thức Hệ bắt nguồn từ những tác phẩm của Karl Marx để chỉ những hệ thống Tư Tưởng chính trị sai lầm mà theo Marx, được giai cấp thống trị đặt ra vì mục tiêu Tư Lợi. Theo chân Marx, các phe nhóm, đảng phái thường cáo buộc lẫn nhau rằng Tư Tưởng của đối phương không diễn tả trung thực Sự Thật, mà trái lại bị làm “méo mó” bởi đầu óc “Ý Thức Hệ” của họ.
Và các cuộc tranh chấp Ý Thức Hệ của thế kỷ 20 vừa qua thường có tính cách quá khích trong địa hạt  Chính Trị hay Tôn Giáo như trường hợp chủ nghĩa Phát Xít và Cộng Sản. Thí dụ điển hình nhất là cuộc “Chiến Tranh Lạnh” mà hai “diễn viên” thù nghịch là Hoa Kỳ và Nga Xô tranh giành ảnh hưởng ở khắp nơi, trên mọi chiến tuyến từ Chính Trị tới Kinh Tế, Tâm Lý vvv…(11)
Thật vậy, chủ nghĩa TƯ BẢN xuất phát từ văn hóa Tây Phương là một Ý Thức Hệ do tính cách MỘT CHIỀU của nó được thể hiện qua chủ trương “quyền Tư Hữu Tuyệt Đối” tạo nên một thiểu số “Hữu Sản” (Tư Bản) nắm gần trọn Tài Nguyên Quốc Gia, nhằm loại bỏ người “Vô Sản” ra ngoài: đó là Sự Thật lịch sử, ít nhất đối với nền Tư Bản Nguyên Thủy.
Và đó là nguyên nhân của sự ra đời của chủ nghĩa CỘNG SẢN là một Ý Thức Hệ  đối nghịch với chủ nghĩa Tư Bản, nên cũng có tính cách MỘT CHIỀU như Tư Bản, trên nguyên tắc chủ trương “Vô Sản” và loại bỏ “Hữu Sản” (thực ra phần lớn cho mục tiêu tuyên truyền), nhưng trên thực tế là một loại “Tư Bản độc quyền nhà nước”!   
Trở lại với Nho Giáo: có người lấy cớ là Nho Sĩ khi xưa học cùng một số Kinh Sách, được truyền đạt một số Giáo Huấn giống nhau để “cáo buộc” họ là “thiếu sáng kiến” thì chưa chắc đã đúng! Lý do là các điều Nho Sĩ  được truyền thụ thuộc đợt NGUYÊN LÝ (Thiên Viên) nên có tính cách Bất Biến của Minh Triết, Đại Đạo. Mà Minh Triết phải có tính chất HAI CHIỀU nên Nho Sĩ  phải biết áp dụng những Nguyên Lý nêu trên vào cuộc sống thực tế bằng những GIẢI PHÁP (Địa Phương) cụ thể phải được  thích nghi cho từng vấn đề, từng thời, từng nơi. Hiểu và làm được như vậy thì mới xứng danh là  ‘Đại Nho”, là “Nho Quân Tử”, còn không thì chỉ là những “tiểu nho”, như loại “nho hương nguyện, chú sớ” mà thôi! Ngoài ra,  nhằm đưa ra như bằng cớ hầu chứng minh đó là  trường hợp Điển Hình của Nho Giáo tại Việt Nam, thì  tại sao lại lấy thí dụ ở bộ “Hoàng Việt Luật Lệ” hay “Luật Gia Long” với đầy tính “Sa Đọa” của triều Nguyễn, sao chép nguyên văn bộ “Đại Thanh Luật Lệ” của Trung Hoa? Mà không căn cứ trên bộ “Quốc Triều Hình Luật” hay ‘Luật Hồng Đừc” đầy tính Sáng Tạo nên xứng đáng là bộ ‘Luật Nhân quyền” Đầu Tiên của Việt Nam và cả Nhân Loại nữa! Cũng nên nhớ, người có đóng góp Quan Trọng vào nội dung của Bộ Luật Quý Giá này là Nguyễn Trãi, một NHO SĨ VIỆT. Vậy nên, chớ vội kết luận rằng Nho Sĩ xưa không có tinh thần Sáng Tạo ! Bằng cớ về tính Sáng Tạo trong lãnh vực Nhân Văn có thể  hơi “khó kiếm” hơn trong lãnh vực Vật Lý một chút, nhưng nếu biết để ý, có phương pháp và chịu khó đi tìm thì chắc chắn sẽ kiếm ra!
Còn về khía cạnh của lời ‘cáo buộc”: Nho Giáo là “Ý Thức Hệ một chiều” liên quan đến sự thất bại của nhà Nguyễn và nhà Thanh trong cuộc “Canh Tân đất nước” của các thế kỷ vừa qua, chúng tôi căn cứ trên nhận xét của một Học Giả Quốc Tế danh tiếng gốc Pháp Etiemble về số phận khác nhau của Nho Giáo tại Trung Hoa và Việt Nam một bên và bên kia là Nhật Bản, đã có dịp phân tích vấn đề này như sau: “Vận nước có khi lên khi xuống, nhưng nếu muốn tìm một giải thích Văn Hóa về vấn đề trên thì chúng tôi có nhận xét như sau: Nho Giáo đến đời nhà Tống chia làm hai dòng: dòng “Lý Học” của Chu Hi ảnh hưởng mạnh ở Trung Hoa và Việt Nam lại nặng phần “từ chương trích cú”; còn dòng ‘Tâm Học” của Vương Dương Minh gần với Tinh Thần của Nho Giáo Nguyên Thủy hơn lại mạnh ở Nhật Bản, nên giúp giới Sĩ Phu Nhật thời đó sáng suốt hơn, cũng như “giúp Nhật trong vòng non nửa thế kỷ trở nên một trong những quốc gia đệ nhất hoàn cầu”.(12)
Tóm lại, sự thất bại nêu trên có lẽ một phần là do Thời Thế và phần khác là do Lỗi Lầm  của các triều Nguyễn và triều Thanh hơn là của Nho Giáo vậy!
Nhưng đó đã là câu chuyện của Quá Khứ rồi, vì từ lâu nay xuất hiện một ‘Thời Trang MỚI” là làm sao giải thích Ảnh Hưởng của Nho Giáo đối với sự Hiện Đại Hóa vượt bực của các “Con Rồng” Á Châu như Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba…, mà mẫu số chung là nền Văn Hóa NHO GIÁO, so với các nước có nền văn hóa Khác ở trong vùng.
Mặt khác, nếu giải nghĩa sự “Suy Tàn” của Nho Giáo trong giai đoạn vừa qua như có người đã làm, là do sự Chia Rẽ của giới Nho Sĩ thì (nếu có) CHỈ là một nguyên nhân GẦN, còn muốn tìm ra Nguyên Nhân SÂU XA, Chính Yếu thì có lẽ phải căn cứ trên đoạn văn sau đây của một trong những  Sử Gia hàng đầu của Thế Giới là A. Toynbee. Ông viết:
“….Cho nên tôi thiết tưởng  các nhà Sử Gia tương lai sẽ nói rằng: biến cố lớn hơn hết trong thế kỷ 20 là sự Xung Động của nền Văn Minh Tây Phương trên các xã hội khác trong khắp Thế Giới. Họ sẽ nói: sự Xung Động đó mạnh mẽ và có tính cách thấu nhập đến nỗi nó làm Đảo Lộn cuộc sống Mọi xã hội, khuấy trộn Mọi tập quán, làm tan rã Mọi công hội Cổ Truyền… (13).
Qua nội dung của đoạn văn trên đây của Sử Gia Toynbee, chúng ta thấy rằng không chỉ Nho Giáo mà MỌI nền Văn Hóa Cổ Truyền đều bị Suy Thoái trước sự Xâm Lấn của Văn Minh Tây Phương trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, theo Toynbee, đó chỉ là giai đoạn ĐẦU của sự ‘Va Chạm” giữa Tây Phương và các nền Văn Minh Cổ Truyền là thời kỳ mà Văn Minh Tây Phương còn giữ thế “Thượng Phong”. Còn giai đoạn SAU của hiện tượng “Va Chạm” giữa các nền Văn Minh có thể sẽ đưa đến những kết quả rất KHÁC với thời kỳ đầu tiên  như Toynbee tiên đoán sau đây :
“Đó là điều họ sẽ nói  tới vào những năm 2047, tức là 100 năm sau (sách của tác giả xuất bản năm 1947) và họ sẽ nói gì năm 2047:
Lúc ấy họ sẽ chú trọng đến những Phản Kích ghê hồn mà các nền Văn Minh KHÁC sẽ gây ra trong đời sống  của người đi xâm chiếm (tức Âu Châu). Chừng ấy Văn Minh Âu Châu xét theo lúc ra khỏi thời Trung Cổ sẽ biến thái đến nỗi không còn nhận ra được  bộ mặt trước của nó, dưới ảnh hưởng dồn dập của những nền Văn Minh Khác: nào Chính Thống, nào Hồi Giáo, nào Ấn Độ, nào Viễn Đông” (14).
Điều mà Toynbee tiên đoán ở phần trên có lẽ đã bắt đầu rồi đó , trái với các tin tưởng của giới Tây Học thường mắc phải một loại “mặc cảm Nhược Tiểu” đối với người Tây Phương, vì  có lẽ đa số trong họ tưởng rằng đời nào Tây Phương cũng “hùng mạnh’ như ngày nay, hoặc ít ra Tây Phương luôn “trội vượt” các Dân Tộc KHÁC về mặt Văn Minh hoặc sự Hùng Cường của nền Văn Minh Tây Phương cận đại bắt nguồn từ nội dung Văn Hóa của họ. Đó là những “huyền thoại” mà giới Trí Thức “Thuộc Địa”, “Nhược Tiểu” thường “nuôi dưỡng” về Văn Minh Tây Phương!
Thật vậy, nếu chịu nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh, thấu đáo hơn Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại thì chúng ta sẽ có một hình ảnh rất KHÁC với những điều Tin Tưởng nêu trên. Chúng ta sẽ thấy rằng không có dân tộc nào “độc quyền” về phương diện Văn Minh cả, mà tùy theo thời cơ vận số, vai trò lãnh đạo Văn Minh chuyển tay từ dân tộc này qua dân tộc khác. Theo các khám phá mới nhất, thì “Cái Nôi” của Văn Minh Nhân Loại nằm ở vùng Đông Nam  Á, và theo dòng thời gian chuyển qua Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp, Á Rập, rồi Tây Phương.
Có những Học Giả danh tiếng như Sử Gia Will Durant cho rằng nếu Khoa Học theo nghĩa Thời Mới , xuất hiện ở bên Ả Rập, thì còn hợp lý hơn là ở Tây Phương. Nhưng  người ta không hiểu lý do tại sao Văn Minh Ả Rập khi đã đạt được đỉnh cao ở thế kỷ XII thì lại gặp đủ thứ Tai Ương: hết thiên tai, bão lụt lại đến họa Mông Cổ, nên cuối cùng bị tàn phá đến tận gốc rễ. May mà một chút còn lại của Văn Minh Ả Rập được chuyển qua Âu Châu với các cuộc Thánh Chiến, làm bàn đạp cho sự phát triển Khoa Học ở bên Tây Phương sau này.
Tóm lại, văn minh Tây Phương cận đại chỉ bắt đầu vài trăm năm trước đây và CHỈ là MỘT giai đoạn, giai đọan chót của một Chu Kỳ Tiến Hóa của Văn Minh Nhân Loại. Và một Chu Kỳ Tiến Hóa MỚI sẽ bắt đầu có lẽ trong tương lai không xa lắm!
Chính trong chiều hướng đó mà một vài nền  Văn Hóa, Tôn Giáo nhờ tính NHÂN BẢN tiềm tàng của chúng , đã vượt qua được “Thách Đố” (Challenge: từ ngữ của Toynbee) do Văn Minh. Văn Hóa Tây Phương áp đặt trong giai đoạn vừa qua, đang lần lượt “Hồi Sinh” như ảnh hưởng tương đối lớn mạnh của một vài Tôn Giáo Đông Phương trong xã hội Tây Phương ngày nay, hoặc biến cố Nho Giáo được trao tặng “ghế Danh Dự” tại hai Hội Nghị Thế Giới đầu tiên về Triết Học vào các năm 1939 và 1949 tại Honolulu, mà ảnh hưởng còn  được  tiếp tục sau đó qua sự kiện Nho Giáo thường đươc nhắc tới tai các Diễn Đàn về Tư Tưởng Khoa Học và Triết Học trên Thế Giới như chẳng hạn cách đây khoảng 20 năm (1998) tại Hôi Nghị đầu tiên tại Paris đã quy tụ các nhà Nghiên Cứu và Học Giả  Quốc Tế đã từng đoạt Giải Thưởng NOBEL, trong đủ mọi lãnh vực nhưng đông hơn hết là các nhà Khoa Học, Bản Tuyên Ngôn cuối cùng của Hội Nghị có những lời lẽ như sau: “Nếu không trở về với nền Luân Lý Đạo Đức của Khổng Tử cách đây 25 thế kỷ thì  Nhân Loại chắc khó mà có thể sống còn được”  !(15)
Lý do là trái với  sự Lạc Quan của giới Trí Thức của cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20  vừa qua, còn đặt niềm tin Tuyệt Đối vào khả năng của Khoa Học trong việc giải quyết các vấn đề của con người, những thành phần thực sự Hiểu Biết ngày này, càng ngày càng ý thức rằng Khoa Học “tự nó” KHÔNG ĐỦ, nhất là khi đi kèm với một nền Văn Hóa Triết Học  có tinh cách DUY LÝ, Duy Vật như của Tây Phương. Hệ quả của tình trạng trên là ngoài một số Tiện Nghi Vật Chất, Khoa Học không những KHÔNG có khả năng đem lại Chân Hạnh Phúc cho con người, mà trái lại còn có nguy cơ đặt Nhân Loại trước “Bờ Vực Thẳm” với đường lối Phát Triển MỘT CHIỀU Hiện Nay đang tàn phá tới mức  tối đa  Môi Trường Sinh Thái của con người trên Mặt Địa Cầu!
Vậy nên, như lời kêu gọi của Albert Einstein trước đây là chúng ta Phải NHÂN BẢN Hóa Khoa Học : NHO GIÁO có lẽ nhờ đáp ứng được các Nhu Yếu nêu trên về một nền Nhân Bản Toàn Diện, do đó đã đươc nhiều lần TUYÊN DƯƠNG trên các Diễn Đán QUỐC TẾ  như là một nền MINH TRIẾT có khả năng giúp VƯỢT được những Thách  Đố lớn lao hiện nay,  cho mục tiêu Sống Còn của Nhân Loại trong giai đoạn sắp tới.
Tóm lại. phần trình bày ở trên cho thấy rằng Nho Giáo, nhất là VIỆT NHO, KHÔNG phải là “Ý Thức Hệ Một Chiều” như có người lầm tưởng, mà chính là một nền MINH TRIẾT Hai Chiều kích mà Nhân Loại thực sự  đang cần đến vì có khả năng GIÀN HÒA hai nhu cầu thiết  yếu trong mỗi con người mới xem qua có vẻ Mâu Thuẫn nhưng thực sự Bổ Túc cho nhau: đó là nhu cầu về HUYỀN NIỆM và nhu cầu về XÃ HỘI.

B) LÝ DO CẦN ĐIỀU CHỈNH Ý NGHĨA TỪ NGỮ “NHẬP CẢNG”
1) ĐẠI CƯƠNG
Ngoài hai Từ Ngữ quan trọng đã được đề cập ở phần trên là “Giai Cấp“ và  “Ý Thức Hệ“, vài Từ Ngữ khác cũng thường gây lẫn lộn, nhất là mỗi khi đề cập đến vấn đề  liên quan tới Nho Giáo. Lý do có lẽ là vì Nho Giáo một mặt không thuộc nền văn hóa Tây Phương nên khó sắp xếp một cách thỏa đáng vào một phạm trù của Tây Phương, mặt khác Nho Giáo vì  là một nền Minh Triết có tính cách TOÀN DIỆN nên đáp ứng đưọc nhiều Nhu Yếu khác nhau. Hệ quả của tình trạng trên là Nho Giáo có khi xuất hiện như  có nét Đặc Trưng giống MỘT phạm trù nào đó của văn hóa Tây Phương, đồng thời lại có nét Đặc Trưng khác tương tự một pham trù KHÁC của Tây Phương  có khi đối nghịch với phạm trù vừa đề cập trước đó, trong khi cả hai phạm trù nói tới đều thuộc về MỘT nền văn hóa Tây Phương cả!
Câu hỏi mà người Tây Phương khi mới tiếp cận với Nho Giáo thường  đặt ra là Nho Giáo là một TÔN GIÁO hay một TRIẾT HỌC ?  Thật ra, Nho Giáo KHÔNG phải là Tôn Giáo chỉ dựa trên NIỀM TIN hay Triết Học chỉ dựa trên LÝ TRÍ như bên  trời Tây. Hay nói cách khác, như theo Cố Triết Gia Kim Định, Nho Giáo thuộc loại Văn Hóa TÂM LINH tham bác cả Tôn Giáo lẫn Triết Học. Nó giống Triết Học vì căn cứ trên những yếu tố mà LÝ TRÍ có thể kiểm chứng hay ít ra có khả năng thể nghiệm được. Tuy nhiên lại giống Tôn Giáo vì nó vận dụng  cả TÌNH CẢM, cả Ý CHÍ đến cùng tột gọi là TÂM LINH nên sâu hơn Triết và vì thế giàu khả năng Thống Nhất con người(16) nên dễ đưa tới Hành Động thiết thực (thay vì dừng lại ở đợt “biết để mà biết“ kiểu Triết Học Tây Phương). Do đó, Nho Sĩ  không phải như Trí Thức chỉ chuyên về Lý Trí, hay  như  Giáo Sĩ  chỉ chuyên về Tình Cảm, mà Nho Sĩ  chú ý đến  cả TÌNH  lẫn LÝ.
Trên đây là những lý do có thể gây ra Hiểu Lầm về bản chất và nội dung của Nho Giáo, đưa tới việc sử dụng một số Từ Ngữ được “du nhập“ từ nền Văn Hóa Tây Phương, nhưng khi áp dụng vào đồng văn của nền Văn Hóa VIỆT thì có vẻ như không được chuẩn xác lắm!
Trước khi bắt đầu công việc xem xét lại sự sử dụng một số Từ Ngữ như vừa nêu trên, chúng tôi cũng xin giải thích sơ qua phương tiện mà chùng tôi đang sử dụng cho công việc kể trên, là một cuốn Tự Điển “Việt- Nho- Pháp“ (Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Francais)  khá “bề thế“ mà tác giả là một Vị Linh Mục, Eugène GOUIN thuộc Hội Truyền Giáo Pháp (M.E.P.). Cuốn Từ Điển này  là kết quả của công trình nghiên cứu dài hạn về Ngôn Ngữ học VIỆT , đặc biệt liên quan đến việc biên soạn các cuốn Tự Điển kéo dài nhiều thế kỷ mà người nổi tiếng nhất là Alexandre de Rhodes, kế đên Taberd, Legrand de la Luraye, Pétrus Ký, Hue ...vvv...
Chúng ta biết vai trò quan trọng của các Vị  Thừa Sai hay nhà Nghiên Cứu nêu trên đối với việc hình thành chữ Quốc Ngữ cũng là một phương tiện hữu ích cho công cuộc Truyền Giáo của họ, cũng như sự kiện đa số trong họ thường tinh thông chữ Nho. Mục tiêu của tất cả các điều vừa được đề cập ở trên là nhằm  giảì thích tính cách nghiêm túc , chuần xác của phương tiện mà chúng tôi đang sử dụng là cuốn Tự Điển “Việt –Nho –Pháp“ của L.M. Eugène Gouin. Ngoài ra, vì lý do không được tiện lợi việc đối chiếu các Từ Ngữ “Nho-Việt“ trên Internet, do đó chúng tôi xin mạn phép chỉ  căn cứ trên mối liên hệ ý nghĩa giữa các Từ Ngữ “Việt-Pháp“ mà thôi.                                   Các Từ Ngữ mà chúng tôi đề cập kế tiếp là “Giáo Lý“, “Giáo Điều“, “Tín Điều“
 2) CÁC TỪ NGỮ KHÁC
a) GIÁO LÝ
Liên hệ Ý Nghĩa “Việt-Pháp“  theo cuốn Tử Điển nêu trên là:
Giáo Lý  =  Dogme Religieux, Doctrine
Nhận Xét : đó là ý nghĩa của từ ngữ “Giáo Lý“ vào thời điểm 1957 (năm xuất bản ). Có hai nghĩa:
-  nghĩa CHÍNH là “Dogme Religieux”(=tiếng Anh là “Religious Dogma“) có nghĩa là một Niềm Tin  (belief) hay Lý Thuyết (doctrine) có tính cách Tôn Giáo đã đươc chính thức hóa với tinh “quyền uy“ của nó, tức các tín đồ không thể đặt lai vấn đề về ý nghĩa nữa
-  nghĩa PHỤ là “Doctrine“ có nghĩa là một“tập hợp các Niềm Tin (belief) được truyền bá bởi một Giáo Hội“
Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy  rằng  ý nghĩa các từ ngữ biến đổi theo dòng thời gian. Ở vào khoảng năm 1957, từ ngữ “Giáo Lý “ có hai nghĩa. Nghĩa CHÍNH là “Dogme Religieux” hay “Religious Dogma” (tức là “Gíáo Điều“ theo nghĩa ngày nay).
Còn nghĩa PHỤ của từ ngữ “Giáo Lý“ thời đó  như đã nói ở trên, là “một tâp hợp các Niềm Tin (belief) được truyền bá bởi một Giáo Hội“, là Ý Nghĩa mà từ ngữ “ Giáo Lý“ có vẻ vẫn  còn giữ lại cho tới tận hôm nay.
b) GIÁO ĐIỀU
Từ ngữ “Giáo Điều” vào thời điểm 1957 trong liên hệ “Việt-Pháp“ có ý nghĩa như sau:
Giáo Điều = Commandement , Loi,  Précepte
Nhận Xét: Năm 1957, “Giáo Điều” có  ý nghĩa tương đương với ý nghĩa của các từ ngữ ngày nay như “Điều Răn“, “Lời Răn” (của Thiên Chúa, Thượng Đế....) hoặc “Luật Lệ” (Tôn Giáo).
Và như đã nói ở trên, từ ngữ “Giáo Điều“ ngày nay có ý nghĩa tương tự với ý nghĩa Chính của từ ngữ “Giáo Lý“ vào thời điểm 1957, tức là “một Niềm Tin  (belief) hay Lý Thuyết (doctrine) Tôn Giáo đã được chính thức hóa với tính “quyền uy“ của nó, tức tín đồ không thể đặt lại  vấn đề về ý nghĩa nữa.
C) TÍN ĐIỀU
Tín Điều = Articles de Foi
(= Articles of Faith” là những tập hợp các Niềm Tin, có khi được đánh số theo thứ tự, và thường được bắt đầu bằng nhóm chữ “Chúng tôi tin rằng ...” nhằm  thử xác định những điều Nền Tảng trong nội dung khoa Thần Học của một Tôn Giáo (kiểu Tây Phương)....(17)
3) NHẬN XÉT CHUNG
Chúng ta có thể nhận thấy rằng “ Giáo Lý”, “Giáo Điều”, “Tín Điều”... là những từ ngữ áp dụng cho TÔN GIÁO, đặc biệt các Tôn Giáo theo kiểu Tây Phương. Một đôi khi, từ ngữ “Giáo Điều” được thấy áp dụng cho phong trào Cộng Sản, nhưng có lẽ theo nghĩa BÓNG, tức người ta so sánh đảng Cộng Sản với một Tôn Giáo, có lẽ vì có nhiều điểm tương đồng giữa hai Thực Thể: chẳng hạn, hiện tượng “Tôn Sùng Lãnh Tụ” trong đảng Cộng Sản rất giống với sự kiện “Tôn Thờ Giáo Chủ” trong các Tôn Giáo.....vvv.....!
Còn Nho Giáo như vừa trình bày ở trên KHÔNG phải là một Tôn Giáo hay Triết Học theo kiểu Tây Phương. Thật vậy, Nho Giáo trong đồng văn của nền Văn Hóa Đông Phương là một nền MINH TRIẾT, cũng có khi gọi là “Triết Lý Nhân Sinh“ hay “Nhân Bản Tâm Linh“ nữa.                                    
Ngoài ra, vì Khổng Tử là một nhà Đại Hiền Triết Đông Phương, một nhà Giáo Dục Thượng Thặng xứng với danh hiệu “Vạn Thế Sư biểu” mà hậu thế đã ưu ái tặng cho Ông, chúng tôi thử đề nghị dùng từ ngữ “GIÁO HUẤN” (mà theo Tự Điển của LM Eugène Gouin, “Giáo Huấn = Enseigner, Instruire, Conseiller) (18) để thay thế các từ ngữ “Giáo Điều”, “Tín Điều” mà có người muốn áp dụng cho Nho Giáo. Còn về từ ngữ “Giáo Lý” mà ngày nay thường thấy áp dụng cho các Tôn Giáo, có thể thay thế Tùy Từng Trường Hợp bằng, “Lý Thuyết”, “Học Thuyết” hay “Chủ Thuyết” vvv…chăng ? vì theo thiển ý như vậy mới thích hợp với bản chất và nội dung của Nho Giáo. Tuy nhiên, có điều khá lạ lùng là có người tuyên bố rằng “Nho Giáo không nên hiểu là một tôn giáo” và “Chữ “giáo”… đồng nghĩa với giáo dục hơn là với tôn giáo…”, nhưng vẫn tiếp tục dùng các từ ngữ “Giáo Điều”, “Tín Điều”  (có lẽ nên dành riêng cho các Tôn Giáo) thay vì GIÁO HUẤN khi bàn về Nho Giáo!

II) TIÊU ĐIỂM ĐÚNG ĐẮN KHI SO SÁNH VĂN MINH
Ngoài việc điều chỉnh các Từ Ngữ được “ du nhập ” từ  nền Văn Hóa Tây Phương cho hợp với đồng văn của Văn Hóa VIỆT, còn một Nhu Cầu quan trọng khác liên quan đến việc thiết lập một số Tiêu Điểm đúng đắn khi so sánh trong lãnh vực Văn Minh: thật ra, đó là nội dung của một bộ môn có tên là “Văn Hóa hay Văn Minh TỶ GIẢO”  Mà Nguyên Tắc căn bản là phải tìm cho ra PHƯƠNG PHÁP nhằm đạt được sự Công Bằng Tối Thiểu trong công việc So Sánh các nền Văn Minh.
Hệ luận được rút tỉa ra từ Nguyên Tắc nêu trên là TRÁNH SO SÁNH NHỮNG ĐIỀU KHÔNG TƯƠNG ĐƯƠNG như so sánh văn minh Tây Phương cận đại đang ở thời Cực Thịnh của họ với văn minh của các dân tộc khác đang ở thởi Suy Yếu và đổ lỗi cho Văn Hóa của các dân tộc này là nguyên nhân của sự Suy Kém. Phương pháp So Sánh thực sự thích nghi và đúng đắn trái lại đòi hỏi PHẢI SO SÁNH NHỮNG ĐIỀU TƯƠNG ĐƯƠNG như so sánh thời Cực Thịnh của một nền văn minh này với thời Cực Thịnh của một nền văn minh kia, thời Bình Thường với thời Bình Thường, thời Suy Kém với thời Suy Kém vvv.
Nhưng có lẽ còn  Bất Công hơn nữa khi có người So Sánh “Đông xưa” với “Tây nay” đôi khi cách Minh Nhiên, nhưng phần lớn cách Mặc Nhiên. Chẳng hạn, bàn về nội dung công việc của các nhà Sử Học VIỆT thời trước, có người viết : “Do đó, họ chỉ toàn kể lại các sự kiện có liên quan đến vương triều trị vì. Họ ít ghi chú cặn kẽ tình trạng xã hội, kinh tế, quân sự, tư tưởng, văn hóa…..vvv….”
Đúng là “Oan ơi ông Địa”  cho các Sử Gia Việt! Vì đó là lề lối Viết Sử BÌNH THƯỜNG ở thời XƯA, ĐÔNG cũng như TÂY: phần lớn là Lịch Sử của các Vương Triều. Còn quan niệm Viết Sử bao gồm  tất cả các sự kiện Xã Hội, Kinh Tế, Quân Sự, Tư Tưởng, Văn Hóa… là một quan niệm Viết Sử RẤT MỚI kể cả đối với Tây Phương. Cho nên, Học Giả Zenker mới  lấy làm ngạc nhiên và tỏ ra khâm phục, khi cách đây hơn hai ngàn năm, Tư Mã Thiên đã có một quan niệm về Sử MỚI MẺ như vậy, vì cuốn “Sử Ký” của ông bao gồm đủ các sinh hoạt Xã Hội, Kinh Tế, Quân Sự, Tư Tưởng, Văn Hóa …”cho đến cả đứa thích khách” nữa ! (19) Tức đã đi trước Tây Phương gần 20 chục thế kỷ trong quan niệm Viết Sử! Nhưng đó là một Ngoại Lệ đối với thời Xưa; do đó.  học giả Zenker mới tỏ ra ngạc nhiên về trường hợp Tư Mã Thiên như vậy!
Còn về  lời “cáo buộc”? liên quan đến áp lực của Vua Chúa đối với nhà Viết Sử, chúng ta biết ngay cả trước thời Khổng Tử, các Sử Gia Viễn Đông đã có truyền thống chép ĐÚNG Sự Thực những hành vi Xấu, Tốt của Vua Chúa và các Quan lớn nhỏ và phê bình một cách Công Tâm những hành vi đó  ngay khi mới xảy ra, không kiêng nể ai cả. Theo Mạnh Tử trong “Li Lâu hạ”, bài 21, chẳng riêng Lỗ có “Xuân Thu, mà Tấn cũng có bộ “Thặng”, Sở có bộ “ Đào Ngột”, đều là những bộ Sử Biên Niên chép với tinh thần đó”(20). Nhiều Vị đã lấy mạng sống của mình hay chịu hy sinh một phần thân thể của mình bị hủy hoại cho lý tưởng “Tôn Trọng Sự Thật” Cao Quý đó!

KẾT LUẬN
Tử Lộ hỏi Khổng Tử “Nếu Vua nước Vệ bất chính, mời Thầy làm chính sự , Thầy làm gì trước“. Khổng Tử đáp: “Ắt là lấy CHÍNH DANH làm trước chăng ?”.(21) Và câu chữ Nho mà ta thường nghe sau đó:là “Danh bất chính nhi ngôn bất thuận, ngôn bất thuận nhi sự bất thành…“ mà Ý Nghĩa có thể tạm tóm lượt như sau: “Danh và Thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp không định được mà xã hội sẽ HỖN LOẠN“(22)
Chúng tôi có cảm tưởng Khổng Tử đang nói về  tình trạng Thời Cận Đại của chúng ta khi mà những Phạm Trù Văn Hóa “MỚI“  được “mô tả“ bằng những Từ Ngữ như “Giai Cấp“, “Ý Thức Hệ“, “Giáo Lý”, “Giáo Điều”, “Tín Điều”… được “du nhập” vào Xã Hội VIỆT mà giới Trí Thức Việt chưa kịp thời “tiêu hóa“! Mà có lẽ   hệ quả của điều trên là Chiến Tranh, Tang Tóc  đã đến với Dân Tộc  chúng ta  chăng?! 
Với biết bao đau thương, khổ lụy ngút trời xanh. Và để mong chấm dứt tình trạng Hỗn Loạn của Đất Nước đã kéo dài quá lâu rồi, việc Đầu Tiên mà chúng ta phải làm có lẽ  là CHÍNH DANH lại tất cả các Phạm Trù Văn Hóa Ngoại Lai mà vì vội vã, thiếu cân nhắc, chúng ta đã “mời“ vào để chúng “ ngự trị“  trên vòm trời Văn Hóa Dân Tộc. 
Do đó, có lẽ đến lúc phải  CHẤM DỨT NGAY tình trạng “ NÔ LỆ VĂN HÓA“ này thì mới hy vọng một ngày nào đó trong Tương Lai , THANH BÌNH-Thịnh Trị sẽ đến với Dân Tộc VIỆT! 

Lê Việt Thường
28/02/2010

CHÚ THÍCH
(1)  Charles A. Moore, “Philosophy – East and West”, Princeton University Press, Second Printing, USA, 1946
(2) Kim Định, “Hưng Việt”, An Việt Houston. 1988, tr.22
(3) Kim Định, “Hồn Nước Với Lễ gia Tiên”, Nam Cung, 1979, tr.191-196
(4) Kim Định, “Gốc Rễ Triết Việt”, An Việt Houston, 1988, tr. 134
(5) Kim Định, “Hưng Việt”, Idem, tr.23
(6) Francois Jullien,” Un Sage Est Sans Idee ou, l’Autre de la Philosophie”, Du Seuil, 03/1996. Được dich ra tiếng Việt với tựa đề :”Minh Triết Phương Đông & Triết Hoc Phương Tây hay Thể Tạng Khác của Triêt Học”, Nguyên Ngọc, nxb Đà Nẵng, 2003, tr.31-37
(7) Encarta 95, Article “Idêologie”
(8) Kim Định, “Cửa Khổng”, Lĩnh Nam, Louisiana, USA, 1997
(9) Luật Hồng Đức và Vấn Đề Dân Chủ: Tinh Thần và Thể Chế” http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=471&Itemid=99999999
(10) Kim Định, “Cửa Khổng”, Idem
(11) Encata 95, Idem
(12) Etiemble, “Confucius”,, Gallimard, 1966, tr.263
(13) Arnold Toynbee, “Le Monde et l’Osccident”, Desclee de Brouwer,
                  1955
(14)  Idem
(15) James Legge, The Wisdom of Confucius”, Axiom, 2003, tr.5
(16) Kim Định, “Việt Triết Nhập Môn”, An Viêt Hoston, 1988, tr.125-132
(17) Eugène Gouin, “Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Francais”, I.D.E.O.,
       1957,SG, VN
(18) Idem
(19) Kim Định, “Cửa Khổng” Idem
(20) Nguyễn Hiến Lê, “Khổng Tử”, nxb Văn Hóa SG, VN, 1998, tr. 131-132
(21) Nguyễn Đăng Thục "Lịch sử Triết học Phương Đông" Tập I, nxb SG tr.239
     (22) Nguyễn Hiến Lê, Idem, tr.132




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...