VIỆT NHÂN CA
ThS. Nguyễn Ngọc Thơ
1. Bài hát Việt Nhân Ca xuất
hiện trên văn đàn Trung Hoa trong một bối cảnh hết sức đặc biệt. Thời Xuân Thu,
Tử Tích 子皙(TK 6 trCN) là vương tử nước Sở, em trai
Sở Linh Vương, được phong chức Lệnh quân vùng Ngạc Ấp nên được gọi là Ngạc Quân
Tử Tích(鄂君子皙). Một ngày nọ, Tử Tích cùng đoàn tùy tùng đi du ngoạn hồ Phán Hồ
(ngày nay là hồ Lượng Tử ở tỉnh Hồ Bắc – Trung Quốc) thuộc vùng trung lưu dòng
Dương Tử để thăm thú lãnh địa của mình. Vị Vương gia đi trên một con thuyền to
do một người Việt cầm chèo. Được diện kiến Ngạc Vương Tử Tích, người chèo
thuyền cảm thấy rất hãnh diện, đã vừa nhịp tay chèo vừa cất cao giọng hát trong
cái đẹp của phong cảnh hữu tình đầy sắc xuân.
Ngạc Quân Tử Tích nghe giai điệu thánh
thót rất hay nhưng không hiểu Việt ngữ nên yêu cầu người thông ngôn (người nước
Việt) dịch lại cho nghe. Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích lấy làm thích thú, cho
triệu kiến người cầm chèo. Gặp mặt, Tử Tích không chút do dự “xắn ống tay áo,
ôm chầm lấy người Việt chèo thuyền”, còn “lấy một chiếc áo gấm quấn quanh eo”
nhằm bày tỏ lòng biết ơn người hát. Ngạc Quân Tử Tích liền hạ lệnh cho tùy tùng
ghi lại bài hát và lưu lại trong dân. Bài Việt Nhân Ca ra đời
từ đó.
Tất cả cố
sự này được Lưu Hướng (刘向)(79-8 trCN) thời Tây Hán viết trong cuốn Thuyết
Uyển (bài Việt Nhân Ca) cùng với câu chuyện đại phu Trang
Tân (莊莘) nước Sở tiếp chuyện Sở Tương Thành Quân (楚襄成君) vào
thế kỷ III tr.CN. Tương Thành Quân vừa nhậm chức, một ngày nọ gặp Trang Tân
trên bến sông. Trang Tân bước đến xin được bắt tay. Sở Tương Thành Quân ngạc
nhiên, cho như thế là “phạm thượng”. Trang Tân kể câu chuyện về Ngạc Quân Tử
Tích và người lái thuyền với bài hát Việt Nhân Ca này để nói
rằng Tử Tích và người chèo thuyền thuộc hai đẳng cấp khác nhau đến thế mà vẫn
có thể thân mật, huống chi bản thân Trang Tân đã là đại phu mà vẫn không thể
bắt tay Tương Thành Quân. Xuất phát từ bối cảnh này, người Hán đời sau (phiếm
danh) viết lại bài hát Việt Nhân Ca (có thêm, bớt) nên cốt
cách, tìm cảm và cái hồn chắc chắn không còn nguyên vẹn nữa:
Lời Hán văn
|
Lời Hán Việt
|
Lời Việt (tạm dịch)
|
今夕何夕兮搴舟中流
今日何日兮得與王子同舟
蒙羞被好兮不訾詬恥
心兒頑而不絕兮得知王子
山有木兮木有枝
心悅君兮君不知
|
“Kim
tịch hà tịch hề khiên chu trung lưu
Kim
nhật hà nhật hề đắc dữ Vương tử đồng chu
Mông
tu bị hiếu hề bất tử cấu sỉ
Tâm
nhi ngoan nhi bất tuyệt hề đắc tri Vương tử
Sơn
hữu mộc hề mộc hữu chi
Tâm
duyệt quân hề quân bất tri”
|
Chẳng
biết hôm nay lễ lạt gì,
Việt
nhân tôi lướt sóng chu du cùng Vương Tử
Phận
thấp hèn, tôi nào đâu mơ ước
Tiếp
Vương gia, tâm can tôi vui sướng vô ngần
Núi
có rừng và cây kia có nhánh
Vương
Tử người có thấu nỗi lòng tôi (em)!
|
[dẫn theo Lâm Hà 1985: 106; 1995: 72]
Bài Việt
Nhân Ca bản tiếng Hán này của Lưu Hướng được dùng làm ca khúc chính
trong bộ phim Dạ Yến (The Banquet) của đạo diễn Phùng
Tiểu Cương (Trung Quốc, sản xuất năm 2006) song bối cảnh trong phim hoàn có
nhiều sửa đổi, hư cấu so với tích xưa. Ngoài ca từ bản tiếng Hán được giữ
nguyên, các yếu tố khác như tiết tấu bài hát, giọng hát, cách phục trang của ca
sĩ v.v. hoàn toàn xây dựng theo kiểu “Hán hóa” [có thể nghe trên website:http://www.cnflash.net/mtv_page/listmtv4323.html].
b. Cục diện
nghiên cứu và tranh luận về nguồn gốc bài hát Việt Nhân Ca khá
phức tạp, trên đại thể hình thành hai khuynh hướng: (1) đây là bài dân ca
phương Nam, độc lập hoàn toàn với văn hóa Hoa Hạ; (2) đây là bài dân ca hát
theo phương ngữ Hán.
Khuynh
hướng thứ nhất là
phổ biến và có lý hơn cả, được hầu hết các tác giả tham gia khảo cứu ủng hộ hơn
cả. Trong số các tác giả Trung Hoa thời cận hiện đại, Quách Mạt Nhược
(1892-1978) là một trong số những người tiên phong bàn về Việt Nhân Ca.
Theo ông, đây là bài hát hoàn toàn của người Việt phương Nam, được dịch lại
bằng tiếng Sở và lưu lại trong dân, hơn nữa ông cũng nhấn mạnh rằng tiếng Việt
cổ dùng trong bài hát này hoàn toàn khác biệt với tiếng Sở và tiếng Hán cổ
[Trần Luân 1987: 67-68]. Đến thập niên 1980, một số tác giả khác ở Trung
Quốc và Nhật Bản tiếp tục quan tâm nghiên cứu. Tác giả người Nhật là Izui
Hisanosuke (泉井久之助,1905-1983) căn cứ vào kết quả khảo định cổ âm Trung Hoa của nhà
Hán ngữ học Karlgren (1889-1978) để khảo sát, đồng thời đối chứng với hệ thống
ngữ âm cổ trong tiếng Chăm và tiếng Mã Lai cổ ở Đông Nam Á đề xuất một bản dịch
riêng mang nội dung hết lời ca tụng vị Ngạc Quân nước Sở và thể hiện lòng trung
thành tuyệt đối của người lái thuyền:
“Cầu
thọ cho ngài, ngài Vương Tử; Chúc phúc ngài, vị Vương gia vĩ đại! Bề tôi hân
hạnh gặp ngài; Vị Vương tử chính nghĩa, vị Vương tử tôn kính. Tôi thật hạnh
phúc; Nguyện một lòng phục tùng ngài. Hãy làm cho bá tánh sung túc thịnh vượng;
Từ trước đến nay tôi vẫn một lòng tôn kính ngài” [Hứa Hữu Niên 1983: 78-79;
www.okwang.cn].
Song dù sao, Izui Hisanosuke cũng khẳng
định bài hát này có xuất xứ Đông Nam Á cổ, dĩ nhiên là độc lập với văn hóa
Trung Nguyên.
Kế đến,
tác giả Trung Quốc Vi Khánh Ẩn (韦庆隐)[1981] qua khảo sát, khẳng định bài Việt
Nhân Ca là ca dao Việt ngữ thuộc nhánh ngôn ngữ Choang-Đồng phương nam
(tác giả xếp vào nhóm ngôn ngữ Austro-Tai) và không mang nội dung quá ủy mị
kiểu “một lòng tôn kính” như kết quả khảo sát của Izui Hisanosuke. Vi Khánh Ẩn
dịch:
“Đêm nay là đêm gì?
Người ngồi giữa thuyền là ai?
À, là Vương phủ đại nhân đến ấy mà
Vương Tử triệu kiến tôi đến ca hát để thưởng thức,
làm tôi vô cùng cảm kích
Đến ngày nào Vương Tử lại cùng tôi du ngoạn?
Tâm can tôi cảm thụ ơn người.” [www.okwang.cn].
Đến cuối
thập niên 1980, trên cơ sở khảo sát của Quách Mạt Nhược (郭沫若) và Vi Khánh
Ân, hàng loạt các tác giả người các dân tộc thiểu số như Choang, Đồng v.v.. bắt
đầu tiến hành so sánh ngữ âm, ngữ nghĩa giữa bài Việt Nhân Ca do
Lưu Hướng thời Tây Hán ghi lại với ngôn ngữ dân tộc mình và các dị bản của Việt
Nhân Ca tồn tại trong văn hóa dân gian dân tộc mình thì kết quả thu
được không nằm ngoài dự đoán: bài hát Việt Nhân Ca có chung
một nguồn gốc phương Nam và là ca dao của cư dân Bách Việt cổ. Tiêu biểu là
công trình nghiên cứu của tác giả Lâm Hà (林河)[1985: 103-111], Trương Dân (张民)
[www.okwang.cn] dịch đối chiếu với ngôn ngữ dân tộc Đồng; Bạch Diệu
Thiên (白耀天) [www.okwang.cn], Đàm Bình (谭平) [1990:
82-86] cùng một học giả người dân tộc thiểu số khác dịch đối chiếu với
ngôn ngữ dân tộc Choang. Các bản dịch mới của các tác giả này rất tương
đồng, chúng khác biệt hoàn toàn với bản dịch của tác giả người Nhật Izui
Hisanosuke và một số tác giả người Hán trước đó. Bản dịch của Lâm Hà là một ví
dụ:
Tạm dịch thơ:
“Hôm nay là ngày gì ấấy nhỉ?
Thuyền xuân đón khách, khách là ai?
Hóa ra thuyền khách là người - Vương Tử!
Triệu kiến người trên chiếc thuyền xuân,
Việt nhân tôi – lòng cảm tạ vô ngần,
Hôm nay là ngày gì ấấy nhỉ?
Vương Tử cùng lướt sóng ngao du
Tâm can tôi hớn hở vô cùng.”
Còn đây
là nội dung bài Việt Nhân Ca dịch theo tiếng Choang của Bạch
Diệu Thiên:
“Nào
biết đêm nay lễ lạt gì
Giữa
dòng sông rộng, tôi chèo thuyền cho Vương tử.
Ôi
vui thay, khóe mắt sáng ngời,
E
thẹn chứ, nhưng nào giấu được niềm vui.
Bấy
lâu nay tôi luôn quý mến ngài,
Ngọn
núi kia đầy rừng cây che phủ,
Vương
Tử người có hiểu tấm lòng tôi?” [dẫn trong www.okwang.cn]
Cũng tại
thời điểm này, nhiều tranh luận nổ ra trong khuôn khổ khuynh hướng thứ
nhất, xung quanh kết luận bài Việt Nhân Ca là bài hát dân
gian của tổ tiên các dân tộc Choang, Đồng, Thủy, Mao Nam, v.v. (nhóm Bách Việt
cổ), trong đó dữ dội nhất là tranh luận giữa nhà nghiên cứu người Nhật Kutsuki
Jiro (朽本次郎) và tác giả Trung Quốc Đặng Mẫn Văn (邓敏文). Kutsuki
Jiro thì rằng chủ nhân của bài hát Việt Nhân Ca là tổ tiên
chung của nhóm các dân tộc phương Nam, trong khi Đặng Mẫn phủ định kết luận
này, cho đó là kết luận kiểu “nồi cơm to” (gom mọi thứ vào một rọ) và khẳng
định Việt Nhân Ca là bài hát dân gian của riêng dân tộc Đồng mà
thôi [Kutsuki Jiro: 1990].
Một
số tác giả người Việt trong và ngoài nước có nhắc đến Việt Nhân Ca song không
có bài viết nào thảo luận sâu hay truy tìm nguồn gốc, bối cảnh ra đời và ý
nghĩa của bài hát. Chẳng hạn tác giả Trương Thái Du [2004] chỉ nhắc đến lời bài
hát để dẫn chứng cho cội nguồn phương Nam của người Lạc Việt; hoặc tác giả Trần
Thị Vĩnh Tường [2007] chỉ gỏn gọn chú thích đây là “bài hát dân ca Choang” và
“bài hát dân ca Việt thời Ngô Việt giao tranh”, v.v.. Tại Thái Lan, tác giả
Trịnh Trương Thượng Phương (郑张尚芳) năm 1991 dùng tiếng Thái Lan để dịch
giải bài Việt Nhân Ca và cho ra kết quả tương tự các tác giả
thiểu số ở Trung Quốc nói trên [Tôn Lâm, Thạch Phong 1997]. Tại Đại học Cambridge (nước Anh) tác
giả Anne Birrell dựa vào bản dịch phổ biến của các tác giả người Hán dịch lại
bài hát này bằng tiếng Anh:
Lời Anh ngữ
|
Tạm dịch tiếng Việt
|
Tonight,what sort of night?
I tug my boat midstream.
Today,what sort of day?
I share my boat with my lord.
Though ashamed,I am loved.
Don't think of slander or disgrace!
My heart will never fail,
or I have known my lord.
On a hill is a tree,on the tree is a bough.
My heart delights in my lord,
though he will never know
|
Hôm
nay là ngày gì?
Tôi
buông nhịp chèo thuyền ra giữa dòng
Hôm
nay là ngày gì?
Thuyền
tôi chào đón vị Vương gia
Ngại
lắm chứ, nhưng tôi vẫn được ngài ưu ái
Này,
đừng nghĩ rằng phận hèn tôi sẽ bị khinh khi!
Trái
tim vui tôi sẽ chẳng bao giờ phai nhạt
Vì
được biết người – ngài Vương tử
Núi
có cây còn cây có nhánh
Con
tim tôi vui sướng về người,
Dù
rằng Vương tử người chẳng hay biết bao giờ.
|
(Nguồn:
http://post.baidu.com/f?kz=86979332)
Ở khuynh
hướng thứ hai, tác giả Trần Luân (陈抡) [1987: 67-91] dùng phương pháp so sánh lịch sử đi tìm quy luật
và lịch sử diễn biến ngữ âm tiếng Hán, đối chiếu với bài Việt Nhân Ca do
Lưu Hướng ghi rồi kết luận rằng tiếng Việt cổ chỉ là một phương ngữ của gia
đình tiếng Hán, tức phủ nhận ý kiến của Quách Mạt Nhược và các tác giả khác
trước ông. Tuy nhiên, chỉ vài năm sau khi ông công bố, hàng loạt công trình
nghiên cứu của các tác giả dân tộc thiểu số (khuynh hướng 1) phủ định hoàn toàn
kết quả này. Khuynh hướng thứ hai coi như kết thúc tại đây.
c. Bản Việt
Nhân Ca dân gian mới sưu tầm của các tác
giả phi Hán có lời lẽ trong sáng, mượt mà, vừa giản dị nhưng cũng rất uyên bác
và hợp với các quy tắc âm luật trong thơ ca dân gian phương Nam. Về phần này,
tác giả Lâm Hà đã phân tích trên cơ sở âm vận học để chứng minh lời bài hát hoàn
toàn hợp âm luật thơ ca, đồng thời đề cao tài năng của người lái thuyền người
Việt [Lâm Hà 1985: 108]. Về phong cách, bài hát theo thể thơ ca tự do, có câu
dài câu ngắn, không gò bó nghiêm khắc như thơ văn cổ phương Bắc. Câu ngắn nhất
chỉ có một từ, câu dài nhất cũng chỉ có sáu từ. Về cấu trúc ngữ pháp, lời bài
hát không theo cấu trúc ngữ pháp phương Bắc mà hoàn toàn thể hiện truyền thống
phương Nam .
Lấy một ví dụ cụ thể, câu “E thẹn, được quan tâm nhưng tôi không
hề xấu hổ” (蒙羞被好兮不訾詬恥 = Mông
tu bị hiếu hề bất tử cấu sỉ) trong bản tiếng Hán phổ biến, cấu trúc “bị
hiếu” (被好 = được
quan tâm, được yêu) là cấu trúc dạng bị động theo kiểu Đông Nam Á. Trong khi
trong ngôn ngữ Hoa Hạ - Hán, mãi đến cuối thời Chiến Quốc (sau thời điểm ra đời
bài Việt Nhân Ca gần 300 năm) mới có cách nói này trong một số
thư tịch cổ, song cách dùng cũng rất hạn chế
[http://www.xys.org/forum/db/49/63.html].
d. Về người Việt
chèo thuyền trong bài hát, hiện cũng có hai ý kiến đối lập nhau: (1) đó là một phu
thuyền người Việt; (2) đó là một cô gái chèo thuyền người
Việt. Mỗi ý kiến đều có luận chứng riêng. Ý kiến đó là phu chèo thuyền có
các luận cứ sau: các bản dịch kể cả của các tác giả người Hán, các tác giả dân
tộc thiểu số và tác giả người Anh Anne Birrell đều không thấy có từ nào nói đó
là một phụ nữ ngoài các chi tiết “người Việt”, “chèo thuyền” v.v..
[www.okwang.cn]; việc chèo thuyền khá nặng nhọc, nam giới thực hiện hiệu quả
hơn nữ giới; câu chuyện Ngạc Quân Tử Tích và người chèo thuyền được Trang Tân
mượn để nói về quan hệ địa vị giữa ông và một người đàn ông khác – Sở Tương
Thành Vương; và lời lẽ bài hát (theo bản dịch tiếng Hán phổ biến) chưa đủ vị
lãng mạn của một bài tình ca (nhận xét của Chu Hy đời Tống) [Tây Khất Thuật
2004]. Một số tác giả còn đi quá xa khi cho rằng hình ảnh Ngạc Quân Tử Tích ôm
chầm lấy “phu chèo thuyền” là biểu hiện của quan hệ đồng tính đầu tiên trong
lịch sử phương Đông! [dẫn trong www.okwang.cn].
So với ý
kiến thứ nhất, ý kiến thứ hai cho người chèo thuyền là một cô
gái theo chúng tôi là có nhiều luận chứng và hợp lý hơn cả. Thứ nhất,
bản dịch đối chiếu với ngôn ngữ các dân tộc phương Nam đã đủ tính lãng mạn và thi vị
nếu phân tích sâu [Lâm Hà 1985: 108]. Ngay cả bản dịch tiếng Hán phổ biến cũng
thể hiện đặc trưng này khi nói “Núi có rừng và cây kia có nhánh; Vương tử
người có thấu nỗi lòng tôi!” (山有木兮木有枝,心悅君兮君不知 =
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi; Tâm duyệt quân hề quân bất tri). Thứ hai, nếu cho
đây là bài hát giữa hai người đàn ông, thậm chí là thể hiện của quan hệ đồng
tính thì câu chuyện đã sẽ không được lưu truyền trong thiên hạ vì một lẽ Lưu
Hướng – đại phu thời Tây Hán – sẽ không bao giờ đề cao giá trị của nó; hoặc nếu
có nêu ra đi nữa thì sẽ là trường hợp bị phê bình, khinh miệt mà thôi. Thứ ba,
câu chuyện Ngạc Quân Tử Tích đi dạo trên một chiếc hồ (Phán Hồ) chứ không phải
trên sông nên không nhất định phải do nam giới cầm chèo. Hơn nữa, đây là đoàn
du ngoạn chứ không phải hành quân nên yếu tố nhanh hay chậm không là vấn đề.
Thứ tư, các bản dịch của các tác giả (kể cả người Hán, người các dân tộc thiểu số
hay tác giả Anne Birrell) đặt trọng tâm ở ý nghĩa câu chữ, không nói đến giới
tính của người lái thuyền chứ không khẳng định đó là nam giới. Trường hợp bài
dịch tiếng Anh của dịch giả Anne Birrell là một thí dụ, toàn bài hát không nói
đến người chèo thuyền là nam hay nữ nhưng vẫn có một chi tiết thể hiện tình cảm
nam nữ: “On a hill is a tree, on the
tree is a bough. My heart delights in my lord, though he will never
know” (nghĩa đen: trên một ngọn đồi có một thân cây, trên thân cây có
một cành. Trái tim tôi vui sướng vì Vương tử, dẫu rằng người không bao giờ hay
biết điều này). “Trên núi chỉ có một cây, trên cây chỉ có một cành” ám chỉ hình
ảnh khắng khít tình cảm nam-nữ hơn là mối quan hệ quân-thần, bởi nếu là quan hệ
quân-thần thì trên núi phải có cả rừng cây, trên cây phải có nhiều cành (số
nhiều) mới hợp.
Ý kiến thứ hai này được nhiều tác giả ủng
hộ, cụ thể là Lương Khải Siêu [dẫn trong www.xys.org], Hứa Hữu Niên [1983: 77], Chúc
Chú Tiên [1987], La Hồng Khải [2006] v.v.. Hiểu người chèo thuyền là một cô
gái, ta sẽ hiểu hết ý nghĩa văn hóa phương Nam thể hiện qua bài hát. Trong bài
viết này, chúng tôi theo ý kiến coi người chèo thuyền là một cô gái.
e. Trong các ca
từ, đáng chú ý nhất là từ “tɑ em” (tạm viết: ta-em, chữ Sở cổ: 秦) trong tiếng Việt cổ vùng Dương Tử "tɔi", nghĩa là “tôi”. Theo Lâm Hà [1989: 128] từ “tɑ em” có thể là biến âm của từ Cảnh Man (Jingman = 荊蠻), do vậy cả hai đều mang ý nghĩa chỉ
người Việt (hay Sở) phương Nam .
Cũng theo tác giả này, danh từ China mà người Ấn Độ cổ, Ba Tư
cổ đại sử dụng (cũng như thế giới gọi Trung Quốc ngày nay) có thể bắt nguồn từ
(1) từ “tɑ em” chỉ “tôi” trong tiếng Việt cổ hay (2) từ “Jingman”
(Cảnh Man) chỉ các dân tộc phi Hoa Hạ sống ở lưu vực sông Dương Tử đổ về nam.
Theo tác giả, địa bàn mà người Ấn, người Ba Tư cổ tiếp xúc để tiến hành giao
thương đầu tiên ở Đông Á vẫn là các vùng đất Việt – Sở, và có thể họ đã tiến
hành buôn bán với người Việt cổ vùng Dương Tử từ rất sớm. Các loại quả cân,
ngọc lưu li, ngọc bích v.v. mà người nước Sở rất thích được phát hiện rất nhiều
trong các di chỉ khảo cổ trong vùng, cho thấy từ sớm chúng đã trỏ thành thứ
hàng hóa giao thương. Người dân vùng Việt – Sở tự gọi mình là “tɑ em”, dần dà về sau những nhà thương buôn Ấn Độ,
Ba Tư cổ dùng từ “tɑ em” để chỉ Trung Hoa, rồi từ “tɑ em”phát triển thành China như
hôm nay. Tuy nhiên, kết luận này chỉ mang tính phỏng đoán, do vậy nó cần có
nhiều cứ liệu để kiểm chứng bởi giới nghiên cứu hôm nay dường như thiên về chấp
nhận quan niệm rằng danh từ riêng China xuất phát từ tên gọi
của triều đại Trung Hoa thống nhất đầu tiên trong lịch sử: Tần (Qin --> Chin
--> ... --> China) .
2. Xét
trên khía cạnh thời gian, trên đại thể bài Việt Nhân Ca ra
đời vào đầu thời Chiến Quốc và trước thời kì Sở - Việt tranh hùng. Nó được xem
như một biểu tượng hữu hảo của thời kì nồng ấm Sở - Việt trong lịch sử Bách
Việt. Cụ thể, (1) thiếu nữ người Việt hát tặng Sở Vương tử với lời lẽ ca tụng,
lịch sự; (2) Ngạc Quân xắn ống tay áo ôm chầm lấy cô gái Việt, choàng tay quấn
quanh eo cô gái một chiếc áo lụa hoa; (3) cô gái Việt thể hiện niềm hớn hở của
mình khi được chu du cùng Ngạc Quân Tử Tích v.v.., tất cả đều thể hiện mối quan
hệ khá khắng khít giữa người dân nước Sở và Việt nói chung. Theo kết quả nghiên
cứu sử học, Tử Tích sống vào thời Sở Linh Vương (?- 529 trCN). Theo đó, Tử Tích
là con trai Sở Cộng Vương, em trai của Sở Linh Vương Tử Vi. Năm 529 trCN, thừa
lúc Sở Linh Vương xuất cung, Tử Tích và người anh Tử Tỷ lập mưu sát hại Thái Tử
Lục (con trai Sở Linh Vương) để cướp ngôi. Khi Sở Linh Vương quay về, Tử Tỷ và
Tử Tích ép buộc Sở Linh Vương tự sát. Tử Tỷ lên ngôi, phong Tử Tích làm Nhị
Vương Tử, song do lòng dân căm phẫn nên Tử Tỷ chỉ tại vị được hơn 10 ngày [Đàm
Bình 1990: 82]. Đối chiếu sự kiện này với bối cảnh bài Việt Nhân Ca,
ta có thể suy đoán rằng bài hát này xuất hiện vào một trong hai khoảng thời kì:
(1) trước cuộc chính biến xảy ra (tức trước năm 528 trCN), khi ấy Tử Tích được
Sở Linh Vương phong lệnh quân và được ban vùng đất Ngạc Ấp làm lãnh địa cai
quản. Có lẽ chính trong thời gian này, Tử Tích đã cùng đoàn tùy tùng chu du
sông hồ vùng Ngạc Ấp và gặp cô lái thuyền người Việt; (2) trong khoảng 10 ngày
Tử Tỷ lên ngôi, Tử Tích cảm thấy buồn vì thảm cảnh huynh đệ tương tàn nên chu
du Phán Hồ cho vơi nỗi sầu. Dù vậy, theo chúng tôi khả năng thứ hai này khá hạn
chế vì khoảng thời gian 10 ngày sau cuộc chính biến quá ngắn ngủi để Tử Tích đi
dạo, vả lại lời lẽ bài hát của cô gái người Việt có phần ca tụng Tủ Tích, hoàn
toàn không hợp với sự thật là Tử Tích cùng với Tử Tỷ bị dân oán hận (vì đã gây
ra cuộc chính biến) và Tử Tích bị ép tự sát ngày 18 tháng 6 năm 528 trCN
[www.xys.org]. Theo dòng thời gian, nước Sở được củng cố, hùng mạnh và uy hiếp
các nước xung quanh. Dân Dương Việt di tản về hướng đông nam và nhập vào nhóm
dân Ngô Việt – nhóm dân hình thành trên cơ sở nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn
khởi chiến tiêu diệt nước Ngô và sát nhập với Ngô vào năm 473 trCN. Đến cuối
thế kỷ IV trCN, Sở dấy binh diệt Ngô Việt, và cuối cùng Sở bị Tần Thủy Hoàng
chinh phục năm 222 trCN [Đàm Bình 1990: 85].
Bên cạnh
đó, cũng có ý kiến cho rằng Tử Tích được phong Ngạc Quân vào khoảng 339-329
tr.Công nguyên, vào thời của Sở Uy Vương vì chỉ đến lúc này kỹ thuật chế tạo
thuyền tiến bộ mới có thể chế tạo thuyền to để Tử Tích du ngoạn sông hồ [Trình
Thái 1995: 76]. Tuy nhiên đối với ý kiến này, ta có thể nhận thấy ba vấn đề
sau: (1) mốc thời gian này không phù hợp với các dữ liệu lịch sử liên quan đến
thân thế Ngạc Quân Tử Tích nước Sở; (2) vào khoảng thời gian trước 339-329 (nửa
cuối TK V trCN) Sở - Việt đã là hai kẻ thù của nhau và về sau Sở diệt Việt nên
sẽ khó có hình ảnh Tử Tích “xắn tay áo ôm chầm cô gái người Việt” như Lưu Hướng
miêu tả; (3) hơn nữa, bài Việt Nhân Ca có nói đến chiếc thuyền
tonhưng không hề nói thuyền to cỡ nào. Ngạc Ấp là vùng đất nhiều hệ thống
sông ngòi, ao hồ lớn, cư dân người Việt trong vùng quen di chuyển bằng đường
thủy nên không phải đợi đến thế kỷ IV trCN, người ta mới chế tạo được thuyền
to.
Trở lại
với bài hát Việt Nhân Ca, sau khi Ngạc Quân Tử Tích ban lệnh ghi
chép và lưu truyền, bài hát đã trở nên phổ biến hơn trong dân gian, nhất là
trong nhóm cư dân hai nước Việt và Sở cư trú dọc dòng Dương Tử, về sau lan rộng
đến cả các tộc người Việt phía nam và thẩm thấu vào trong văn nghệ dân gian các
dân tộc Choang, Đồng, Thủy vùng Vân – Quý và Lĩnh Nam hiện nay.
Xét ở
khía cạnh không gian và chủ thể, có nhiều phương
diện cho thấy cô gái hát bài Việt Nhân Ca tặng Ngạc Quân Tử
Tích là người Dương Việt – một tộc Việt trong đại gia đình Bách Việt, chủ yếu
cư trú vùng đông nam và nam nước Sở vào khoảng thời gian tương ứng với thời
Xuân Thu – Chiến Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Theo ghi nhận của sử sách, dân
cư Dương Việt tập trung chủ yếu ở vùng Ngạc Đông, ngày nay thuộc khu vực xung
quanh thành phố Ngạc Châu tỉnh Hồ Bắc và một phần tỉnh Hồ Nam [Trình Thái 1995:
74], chẳng hạn như các quyển Mặc Tử (chương Lỗ Vấn), Hàn
Phi Tử (chươngThuyết Lâm), Lã Thị Xuân Thu, Hoài
Nam Tử v.v... Thuở ấy, khu vực xung quanh hồ Động Đình là
nơi tạp cư của nhiều giống tộc người như Việt, Bộc, Miêu Man, song nhiều nhất
vẫn là người Việt. Đặt trong mối tương quan với các tộc Việt khác thì người
Việt tại vùng Ngạc Đông được gọi là Dương Việt [Đàm Bình 1990: 84; Trình Thái
1995: 74].
Tác giả
Trình Thái [1995: 76] đi vào cụ thể khi xác định danh xưng của chiếc hồ nơi bài Việt
Nhân Ca ra đời. Theo tác giả, đó là hồ Lương Tử (梁子) vùng Ngạc Đông (Hồ Bắc) hiện nay. Từ
thời Tây Chu, hồ này được gọi là Phán Hồ (攀湖).
3. Việt Nhân Ca là một bài tình ca độc đáo của dân
gian người Việt, đặc biệt là những cư dân di chuyển bằng thuyền độc mộc trên
khắp vùng phía nam Dương Tử đầy sông nước. Nó độc đáo vì chỉ là một bài tình ca
của một cô gái tuổi xuân thì song lại chứa đựng nhiều đặc trưng văn hóa phương Nam .
Nói về
phong tục, người Việt cổ được biết đến như những cư dân quen với sống
nước và thạo chèo thuyền. Điều này được ghi chép rất kỹ trong Việt
Tuyệt Thư (quyển 8) thời Đông Hán do Viên Khang viết và Ngô Bình hiệu
định: “Người Việt lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, di chuyển nhanh như
gió, khó mà theo được”. Lịch sử di chuyển bằng thuyền của người Việt có thể
đã xuất hiện từ 6000-7000 trước (ứng với thời kì đồ đá mới). Có sáu chiếc tay
chèo bằng gỗ được khai quật ở di chỉ Hà Mẫu Độ (vùng Trường Giang) có thể nói
lên điều này [Lâm Hà 1989: 125]. Trong Thuyết Uyển, Lưu Hướng gọi
người Việt là Bàng Duệ Việt Nhân để chỉ ý muốn nói người Việt
phương Nam chuyên di chuyển bằng thuyền. Vị Ngạc Quân Tử Tích khi đi du ngoạn
sông hồ không hề gọi người nước Sở cầm chèo mà phải là người Việt, điều này cho
thấy họ rất thiện tay chèo. Có thể vào lúc ấy, chèo thuyền đã trở thành một
nghề mưu sinh của một bộ phận người Việt. Loại thuyền thông dụng nhất của họ
thời bấy giờ là thuyền mộc, trong đó có loại thuyền độc mộc rất độc đáo. Ngày
nay, trong ngôn ngữ dân tộc Đồng – một hậu duệ của Bách Việt – con thuyền được
gọi là langp [Lâm Hà 1989: 125], là hình ảnh chiếc du thuyền
trong bài Việt Nhân Ca nói trên. Langp là
loại thuyền làm bằng một loại gỗ đặc biệt, có thể sử dụng rất lâu dài.
Người
Việt cổ rất trọng lễ nghi. Cô gái diễn đạt tình cảm của mình vừa
mãnh liệt nhưng cũng dịu dàng, lịch sự. Vị Vương gia thân danh cao quý song cảm
thấy gần gũi, không hề cảm thấy bị xúc phạm. Trong bài Việt Nhân Ca có
câu “ “tɑ em sui sui” (Sở Văn: 秦胥胥)”, nghĩa là “Tôi cảm ơn” (Hán văn: 我謝謝 = Ngộ tạ tạ) [Lâm Hà 1985]. Có thể
từ “sui sui” trong Việt ngữ cổ được vay mượn từ từ “tạ tạ” (cảm
ơn) trong tiếng Hán cổ, song bài hát cũng đủ cho thấy cô gái người Việt này
biết trọng lễ nghi, biết tỏ lòng cảm tạ vị Ngạc Quân nước Sở khi được triệu
kiến.
Người
Việt cổ trọng lối sống cộng đồng và coi trọng các hoạt
động sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Bản tiếng Hán do Lưu Hướng ghi có bối
cảnh rằng Ngạc Quân Tử Tích và đoàn tùy tùng “du thẩm” (逾滲 = lướt đi trên sông) Ngạc Ấp nên gặp
cô gái Việt chèo thuyền. “Du thẩm” là từ Hán hoàn toàn, song nó dùng để chỉ ý
nghĩa “cùng nhau đi chơi”, “thăm viếng lẫn nhau” bằng đường sông
nước chỉ có ở phương Nam: chữ thẩm (滲) có bộ thủy ở phía
trước. Tục ngữ Hán có câu “Nam
di chu, Bắc di mã” phản ánh đúng lối sống sông nước này. Trong truyền thống
văn hóa Bách Việt, việc thăm viếng lẫn nhau vào những dịp đặc biệt như năm mới
(lễ tết) hay những ngày trăng tròn (vọng) là rất quan trọng, nó thể hiện sự
quan tâm đến đời sống cộng đồng của cư dân nông nghiệp. Vị Vương Tử nước Sở và
đoàn tùy tùng du ngoạn sông hồ giống như lúc người Việt đang tổ chức du xuân,
do vậy Lưu Hướng gọi chuyến đi của vị Vương Tử này là du thẩm. Tuy
nhiên, ngày Tử Tích du ngoạn Phán Hồ không trùng vào bất kì ngày lễ hội nào của
người Việt nên cô gái tự hỏi mình trong lời bài hát đến hai lần “Hôm nay là
ngày gì nhỉ?”. Ngày nay, các dân tộc Choang, Đồng, Bố Y, Cách Lao, Thái ở
Trung Quốc cũng như người Việt ở Việt Nam vẫn còn tập tục du xuân, nhất là lễ
hội xuân dân gian ngày mồng ba tháng ba âm lịch hàng năm. Chẳng hạn người
Choang gọi đó là lễ hội lồng tồng (隴洞, phiên âm tiếng Hán là /longdong/,
đọc /lúng tung/), cùng nhau tham viếng, múa hát, vui xuân. Người Tày,
Nùng ở Việt Nam cũng tổ chức lễ hội này, đồng thời kết hợp luôn với Tết Thanh
minh chỉ vài ngày sau đó, biến lễ hội ba tháng ba thành lễ hội lớn thứ hai
trong năm.
Việt
Nhân Ca có thể được
ví như kết tinh của văn hóa dân gian hai nước Việt, Sở thời kì nồng ấm nhất vào
khoảng thế kỷ VI, V trCN. Mặc dù Việt, Sở được cho là cùng xuất thân từ nhóm
Bách Việt, qua thời gian trở nên bất đồng ngôn ngữ, bất đồng văn tự song vị trí
địa lý gần gũi, loại hình văn hóa tương đồng (nông nghiệp lúa nước) cộng với sự
giao thoa chính trị, văn hóa, kinh tế đã duy trì được sự gần gũi giữa người dân
hai nước. Khoảng cách giữa họ dường như không tồn tại khi Ngạc Quân Tử Tích ôm
chầm cô gái chèo thuyền thuộc hàng thuộc cấp của mình. Phải chăng đó là hiện
thực tất yếu vì họ đều thuộc các tộc người phương Nam , đều là các cư dân nông nghiệp
có cùng những đặc trưng văn hóa nông nghiệp?
Trong Việt
Nhân Ca không có chỗ đứng cho những lễ nghi, giáo điều phương Bắc. Cần
nhớ rằng thời Chiến Quốc người phương Bắc đã bắt đầu cổ xúy cho những thứ lễ
nghi phân biệt vua – tôi, phân biệt các thành phần dân cư trong xã hội, theo
đó, cá nhân thuộc từng nhóm địa vị khác nhau đều phải có cung cách thái độ và
hành vi đặc thù. Song, ở Việt Nhân Ca thì không phải như vậy.
Theo Thuyết Uyển, sau khi nghe bài hát phong tình, Ngạc Quân Tử
Tích không do dự chạy đến, “xắn tay áo” và “ôm chầm lấy cô gái người Việt”. Đó
là một hành động mang đậm chất văn hóa phương Nam, nơi mà quan hệ vua – tôi,
thủ lĩnh – thành viên không bị đưa đến tình trạng phân biệt cao thấp rạch ròi.
Trong bối cảnh như thế, hành động Ngạc Quân Tử Tích ôm lấy cô gái không hề vi
phạm bất kì quy định nào từ phía gia tộc lẫn dân gian. Chưa hết, Ngạc Quân Tử
Tích còn tự tay mình lấy chiếc áo gấm thêu hoa cột quanh eo cô ấy như là một
tặng phẩm thay lời cảm ơn. Nếu là người phương Bắc, ông đã có thể gọi quân hầu
“ban bố” phẩm vật ấy cho cô gái. Ngược lại, cô gái cất tiếng hát một cách thoải
mái, coi vị Vương Tử như một người bạn, thậm chí là một đối tượng để nàng tỏ tình.
Ngay cả khi Lưu Hướng – một vị Hán quan theo Nho học nghiêm túc – khi ghi lại
bài hát này bằng tiếng Hán cũng không bỏ quên thậm chí còn tô điểm thêm yếu tố
tình cảm nồng nàn của cô gái Dương Việt khi viết:
“Núi
có rừng, và cây kia có nhánh
Vương
Tử người, có thấu nỗi lòng tôi (em)?”
Các chi tiết nói trên dù nhỏ nhặt, chỉ là
các khía cạnh phụ trợ của một bài dân ca, song chúng là kết tinh của một truyền
thống lớn của người Việt nông nghiệp phương Nam, phần nào thể hiện đặc trưng
văn hóa Bách Việt thời kì độc lập trước khi bị người Hoa Hạ phương Bắc chinh
phục.
Tài liệu tham
khảo:
1.Nguyễn
Ngọc Thơ (2007), “Việt Nhân Ca – bài ca Việt nữ cổ”, Tuổi Trẻ Chủ nhật,
22/9/2007.Website:http://mobi.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=220916&ChannelID=119.
2.Trần Thị Vĩnh Tường (2007), “Động Đình
Hồ - cội nguồn của tộc Việt”, websitehttp://www.anviettoancau.net/html/capnhat_16/TtVT_Dongdinh.htm.
3.Trương Thái Du (2004) “Lưu vong – nỗi
niềm từ quá khứ đến tương lai”, website: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n3n4n2nvn31n343tq83a3q3m3237nvn
4.祝注先(1987)“说“越人歌””,《学术论坛》广西社会科学学院,第5期,49-51页 (Chúc Chú Tiên (1987), “Nói về bài
Việt Nhân ca”, Học thuật luận đàm, Viện KHXH Quảng Tây, kì 5, tr.
49-51).
5.“越人歌:一个逃亡的隐秘爱情”(“Việt Nhân Ca: một tình yêu bí ẩn chạy trốn”), website:
http://www.singtaonet.com/weekly/weekly0611/weekly061
1_14/t20060920_337019_2.html.
6. 覃平(1990) “也谈“越人歌””, 《贵州民族研究》,第1期,82-86页 (Đàm Bình
(1990) “Lại nói về Việt Nhân Ca”, Nghiên cứu Dân tộc Quý Châu, kì
1, tr. 82-86).
7.韩伯泉(2003)“越人歌新说”( Hàn Bác
Tuyền (2003), “Việt Nhân Ca tân thuyết”),website:http://www.gzsdfz.org.cn/ycjg/2003-4/2003-4-11.htm.
8.许友年(1983)“试论“越人歌”的原文与译文”,《福建师范大学学报》,第1期,77-80页 (Hứu Hữu Niên (1983) “Thử bàn về nguyên văn và bản dịch bài
Việt Nhân Ca”, Học báo Đại học Sư phạm Phúc Kiến, số 1, tr. 77-80).
9.罗洪启(2006)“越人歌”( La Hồng
Khải (2006), “Việt Nhân Ca”) ,website: http://www.blogsun.cn/lhqblog/article.asp?id=115.
10.林河(1985)“侗族民歌与“越人歌”的比较研究”,贵州民族研究,第4期,103-111页 (Lâm Hà (1985) “Nghiên cứu so sánh dân ca dân tộc Đồng và
Việt Nhân Ca”, Nghiên cứu Dân tộc Quý Châu, kì 4, tr. 103-111).
11.林河(1989)“论“越人歌”中的民俗”,《民间文艺季刊》,中国民间文艺家协会上海分会,121-137页(Lâm Hà (1989),
“Bàn về các phong tục dân gian trong bài Việt Nhân Ca”, Quý san Văn
nghệ Dân gian, Hiệp hội Nghệ nhân Văn nghệ Dân gian Trung Quốc – Phân hội
Thương Hải, tr. 121-137).
12.西乞术(2004)““越人歌”的古译和今译”(Tây Khất Thuật (2004) “Về các bản dịch
xưa và nay về bài Việt Nhân Ca”), website http://www.xys.org/forum/db/49/63.html.
13.陈锦鸿(2003)“广州:岭南文化生于斯盛于斯”,羊城今古,第1期 (Trần Cẩm Hồng (2003) “Quảng Châu: Văn hóa Lĩnh Nam xuất phát
từ đây, thịnh hành cũng ở dây”, Tạp chí Dương Thành kim cổ kì
1).
14.陈抡(1987),《历史比较法与古籍校释:越人歌,李嫂,天问》湖南教育出版社 (Trần Luân (1987), Phương
pháp so sánh lịch sử và hiệu đính, giải thích cổ tịch: Việt nhân ca, Li tao,
Thiên vấn, NXB Giáo dục Hồ Nam).
15.程泰(1995)““越人歌”蠡测”,《江汉论坛》,第4期,72-74页 (Trình Thái (1995), “Giải mã Việt
Nhân Ca”, Giang Hán Luận Đàn, số 4, tr. 72-74).
16.郑张尚芳(1991) ““越人歌”的解码”, Cahiers de Linguistique Asie
Orientale(Paris)- 孙林,石峰1997年译,《语言研究论丛》,第7期,57-65页 (Trịnh Trương Thượng Phương (1991) “Giải mã bài Việt Nhân
Ca”, Cahiers de
Linguistique Asie Orientale(Paris)tr.159-168; Tôn Lâm, Thạch Phong dịch
sang tiếng Trung và in trong Ngôn ngữ nghiên cứu luận tùng, số 7 năm 1997, tr. 57-65).
17.韦庆隐(1981)“越人歌与壮语的关系试释”,民族语文论集,社会科学出版社,23-46页 (Vi Khánh Ẩn (1981) “Thử giải thích quan hệ giữa bài Việt
Nhân Ca và tiếng Choang”, Dân tộc ngữ văn luận tập, NXB
KHXH, tr. 23-46).
18.朽本次郎(1990)“公正在于求实,科学在于求是-就“越人歌”族属问题再与邓敏文先生商榷”,《贵州民族研究》,第1期,80-82页 (Kutsuki
Jiro (1990) “Công chính nằm ở cầu thực, khoa học nằm ở cầu thị - thảo luận cùng
ông Đặng Mẫn Văn về vấn đề tộc thuộc bài Việt Nhân Ca”, Nghiên cứu dân
tộc Quý Châu kì 1, tr. 80-82).
Nguồn: http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/220/83/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét