LỊCH
SỬ PHƯƠNG ĐÔNG
VÀ NỀN
SỬ HỌC KHÔNG ADN
Hà Văn Thùy
I.
Khái quát về Sử học thế kỷ XX
Sử học là khoa học khảo cứu
hoạt động xã hội của những cộng đồng người trong quá khứ. Vì vậy, yếu tố quyết
định thành công của Sử học là nhận thức chính xác về cộng đồng người đó có gốc
gác từ đâu, qua quá trình hình thành như thế nào để có mặt tại thời gian và
không gian mà sự kiện lịch sử diễn ra. Như vậy, vô hình trung, trong bước khởi
đầu, mục tiêu của Sử học trùng với mục tiêu của Nhân chủng học. Nói chính xác
hơn, Sử học phụ thuộc, “ăn theo” kết quả nghiên cứu của Nhân chủng học.
Thế kỷ XX, Nhân chủng học
sáng tạo phương pháp đo đạc so sánh hình thái sọ (metric) để xác định các dạng
người từng tồn tại trên Trái đất đồng thời định tuổi các cốt sọ để tìm hiểu nguồn
gốc loài người. Từ kết quả nghiên cứu đã xuất hiện hai giả thuyết: giả thuyết châu
Phi (out of Africa hypothesis) xác định châu Phi là quê hương của loài người và
giả thuyết nhiều vùng (The multiregional hypothesis) cho rằng loài người được
sinh ra từ nhiều vùng khác nhau: châu Phi cho ra người da đen, châu Âu sinh ra
người da trắng, Tây Nam Á cho ra người Arian còn châu Á là quê hương của người
Mongoloid.
Gần suốt thế kỷ, hai giả
thuyết tranh chấp nhau, không phân thắng bại. Nhưng vào thập niên 70s, do phát
hiện di cốt của người Neanderthal rất giống với người châu Âu hiện đại, thuyết
Đa nguồn gốc thắng thế, chi phối Nhân chủng học thế giới.
Nhìn chung, với châu Âu, vấn
đề nhân chủng khá đơn giản nhưng tại Đông Á, câu chuyện đặc biệt phức tạp.
Thập niên 1920, tại Trung Quốc
có những khám phá khảo cổ học quan trọng. Đó là việc kỹ sư mỏ người Thụy Điển
Anderson phát hiện văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước mà chủ nhân của
nó rất gần với người Trung Hoa hiện đại. Tiếp đó là di chỉ Chu Khẩu Điếm ở gần
Bắc Kinh, có người Đứng thẳng (Homo erectus) khoảng 600.000 năm tuổi, mà ở tầng
phía trên là di cốt người hiện đại Homo sapiens 27.000 năm trước. Những khám
phá này trở thành chứng cứ thuyết phục để giới khoa học tin rằng, con người hiện
đại Homo sapiens xuất hiện ở Tây Tạng, di cư vào Trung Quốc rồi từ đây lan tỏa
ra toàn bộ châu Á.
Kết hợp cổ thư Trung Hoa với
khám phá của khoa học hiện đại, các học giả thế giới và Trung Quốc cho rằng,
người Bắc Kinh là tổ tiên của người Trung Hoa. Đồng bằng miền Trung Hoàng Hà là
nơi phát tích của dân tộc Trung Hoa. Từ đây con người và văn hóa Hoa Hạ lan tỏa
xuống phía Nam. Bên cạnh quan niệm Âu trung: văn minh nhân loại bắt nguồn từ
phương Tây thì xuất hiện quan niệm Hoa trung: Trung Hoa là trung tâm hình thành
con người và văn hóa phương Đông.
Có thể nói, Nhân học và Sử học
hiện đại Việt Nam ra đời trong khí quyển của hai quan niệm này. Sau gần nửa thế
kỷ chiếm đóng Đông Dương, do chủ trương thống trị lâu dài vùng đất này và nhờ tích
lũy được ít nhiều tri thức về phương Đông, người Pháp cho thành lập Viện Viễn
Đông Bác cổ tại Hà Nội vào năm 1898. Trên lĩnh vực khoa học nhân văn, những nhà
Hán học như H. Maspero, Aurousseau… giữ vai trò chủ đạo. Do vậy, cả Nhân học và
Sử học Việt Nam được hình thành trên hai nguồn tư liệu là cổ thư Trung Hoa và
những khám phá khoa học nhân văn của học giả phương Tây. Trong khi người phương
Tây còn hiểu biết về phương Đông rất hạn chế thì những nghiên cứu của Viễn Đông
Bác cổ như ánh đuốc tỏa sáng từ miền đất tối tăm và bí ẩn, soi đường cho giới
khoa học quốc tế.
Với người Việt Nam, các học
giả của Viễn Đông Bác cổ cho rằng, người Melanesien là dân cư cổ nhất ở Đông Dương.
Khoảng 2000 năm TCN, người Indonesien từ Ấn Độ tràn sang, tiêu diệt hoặc đẩy
người Melanesien bản địa ra các đảo Đông Nam Á. Sau cùng, khoảng năm 333 TCN,
do nước Sở diệt nước Việt, người Việt từ Nam Dương Tử chạy xuống Bắc Việt Nam,
tạo nên dân cư Việt Nam hôm nay.[1]
Từ sự xác định nguồn gốc như
vậy đã hình thành quan niệm phổ biến cho rằng, người Việt Nam là sản phẩm đồng
hóa của người Trung Hoa từ trước Công nguyên và được tiếp tục trong thời gian
hơn nghìn năm Bắc thuộc. Lẽ đương nhiên, văn hóa Việt cũng là sản phẩm đồng hóa
của văn hóa Trung Hoa. Không chỉ trong nhiều phong tục tập quán mà rõ ràng nhất
là tiếng Viêt vay mượn khoảng 70% từ ngôn ngữ Hán và chữ Hán trở thành quốc ngữ
của người Việt. Quan niệm như vậy về nguồn gốc, lịch sử và văn hóa của người Việt
đã định hướng cho mọi nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XX.
II.
Những yếu tố khai sinh nền Sử học mới
Tuy nhiên, trên thực tế, đó
không phải màu sắc duy nhất của bức tranh khoa học nhân văn phương Đông. Người
ta vẫn thấy, trên cái nền chung ấy có những đốm sáng tương phản.
Ngay từ những năm cuối thế kỷ
XIX, tại Paris, Đại tá Frey, H, (1847-1932) đã công bố ba cuốn sách liên quan tới
ngôn ngữ Việt Nam là:
1. L'Annamite, mère des
langues; communauté d'origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et
de l'Indo-Chine, Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có
nguồn gốc của các chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương);
2. Annamites et extréme
occidentaux, recherche sur l'origine des langues, Paris Hachette, 1894, 272 p.
(An Nam và Viễn Tây, nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ)
và 3. Les Egyptiens
préhistoriques identifiés avec les Annamites, d'aprés les inscriptions
hiéroglyphiques Paris, Hachette, 1905, 106 p. (Người Ai Cập thời tiền sử liên hệ
với An Nam qua chữ khắc tượng hình).
Là sỹ quan người Pháp từng
công tác tại Tây Phi rồi có mặt ở Đông Dương, tác giả đã nhận ra sự gần gũi giữa
ngôn ngữ Đông Dương và tiếng nói của thổ dân châu Phi cùng các sắc dân Celtic,
Semitic và Soudan. Chính ông đã cảm nhận nguồn gốc châu Phi của ngôn ngữ Việt
Nam. Đồng thời ông cũng phát hiện, tiếng nói của người Việt Nam có vai trò chủ
đạo trong các dân tộc phương Đông. Từ đó ông khẳng đinh, tiếng Việt là mẹ của các ngữ.…
Đáng tiếc là tiếng nói cô
đơn của tay võ biền không thể chống lại một xu hướng đang lên của những học giả
có uy tín lớn.
Năm 1923, nhà khảo cổ người
Pháp Madeleine Colani cùng những người hướng dẫn địa phương khám phá ra số lượng
rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa
Bình, có niên đại 22.000 đến 2.000 năm TCN. Sau đó còn phát hiện ở rất nhiều địa
điểm ở Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra, Nhật Bản, Đài
Loan, Australia… những di tích với các công cụ cùng một kỹ thuật chế tác.
Văn hóa Hòa Bình có ý nghĩa khoa
học rất lớn trên hai phương diện:
1.
Đánh dấu sự chuyển tiếp từ Thời đồ Đá Cũ sang
Đá Mới ở thời điểm rất sớm: 22.000 năm trước. Trong khi, với tri thức kinh điển,
ở phương Tây, văn minh Đá Mới chỉ xuất hiện khoảng 10.000 năm trước. Điều này
cho thấy, văn minh phương Đông tiến trước phương Tây hơn chục nghìn năm. Một chứng
cứ phủ nhận thuyết Âu trung.
2.
Diện bao phủ rộng của văn hóa Hòa Bình cho thấy
Hòa Bình là trung tâm phát sinh văn hóa Đá Mới. Điều này nói lên vai trò quan
trọng của Việt Nam trong văn minh phương Đông. Thuyết Hoa tâm bị nghi ngờ.
Tháng Giêng năm 1932, Hội
nghị Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác nhận:
"Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp
cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình
có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm." (Encyclopédia d’Archeologie).
- Từ năm 1933 tới 1937, có
cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học Ba Lan Pzrilusky với viện sĩ Maspero về nguồn
gốc của ngôn ngữ Việt Nam. Trong khi Pzrilusky đồng ý với Frey cho tiếng Việt là
gốc của các ngôn ngữ phương Đông thì Maspero cực lực phản đối, vẫn giữ quan điểm
của mình: tiếng Việt vay mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Cuối cùng, Maspero chiến
thắng. Ở đây, chiến thắng không phải chân lý khoa học mà là vai vế của người
tranh luận.
- Năm 1952, tiếp nối tư tưởng của Hội nghị về
Tiền sử Viễn Đông, học giả Hoa Kỳ C. Sauer khẳng định: “Về cái nôi của nền nông
nghiệp đầu tiên, tôi xin thưa rằng ở Đông Nam Á. Nơi này quy tụ đầy đủ những điều
kiện khác nhau cần thiết về vật lý thể chất, hóa học hữu cơ, khí hậu ôn hòa với
cả hai vụ gió mùa, với chu kỳ mùa mưa ẩm ướt và mùa khô tạnh ráo, sông nước tiện
cho viêc đánh cá. Đất này là trung tâm điểm giao thương cả đường biển lẫn đường
bộ của Cựu thế giới. Không có nơi nào mà vị trí lại thích hợp và có đủ yếu tố
cung cấp cho sự phát triển nền văn minh hỗn hợp giữa nông và ngư nghiệp tốt hơn
nữa.”
và
"Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu
là văn hóa Hòa Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ." “Tôi
đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng
minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ
này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông
Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và
thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật."[2]
Không chỉ vậy, ngày càng nhiều học giả như
A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957),
Jacques Barrau (1965, 1974), Solheim (1969), Chester Gorman (1970)... cho rằng
vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng sớm nhất của nhân loại.
- Năm 1972 từ những khám phá
khảo cổ ở Thái Lan, W.G. Solheim II đã viết:
"Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại
nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng
việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt
Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN..."
"Rằng văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa
không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới văn hóa Bắc Sơn."
"Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa
Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng
cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm
đã được phát minh..."
“Khác với quan niệm phổ biến
cho rằng, văn hóa Ngưỡng Thiều và Long Sơn ảnh hưởng xuống phía nam, tôi cho rằng,
Ngưỡng Thiều và cả Long Sơn là do giai đoạn Hòa Bình sớm mang lên.”
"Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật
đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã
cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được
truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến
ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên
kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN." [3]
- Năm 1998 Stephen
Oppenheimer cho xuất bản cuốn Địa đàng ở phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị
chìm [4], một cuốn sách làm thay đổi quan niệm về vai trò của Đông Nam Á trong
lịch sử thế giới. Từ kinh nghiệm của một bác sỹ nhi khoa phát hiện dòng gen
thiên di của bệnh thiếu máu ở trẻ em hải đảo Đông Nam Á, kết nối tài liệu khảo
cổ, cổ nhân chủng và giải mã truyền thuyết, ông đưa tới kết luận: Đông Nam Á là
nơi nông nghiệp hình thành sớm nhất trên thế giới. Từ đây, những giống vật
nuôi, cây trồng cùng tư tưởng nông nghiệp được truyền sang phương Tây qua nạn đại
hồng thủy.
Hòa với những khám phá của học
giả thế giới về nền văn hóa phương Đông thì vào thập niên 70s, những khai quật
khảo cổ ở phía Nam Dương Tử phát hiện một thực tế không ngờ tới: Nhiều
văn hóa khảo cổ phía Nam Trung Hoa không những tiến bộ hơn mà còn xuất hiện sớm
hơn phía Bắc. Chữ tượng hình có mặt ở Giả Hồ 9000 năm trước. Tại Lương
Chử, 3300 năm TCN, chữ tượng hình đã trưởng thành, sớm hơn Giáp cốt văn Ân Khư
2000 năm. Các học giả Trung Quốc buộc phải thừa nhận có một nhà nước Lương Chử ra đời sớm nhất ở phương
Đông, sớm hơn nhà Hạ hàng nghìn năm. Cũng từ đó xuất hiện quan điểm cho rằng:
đồng
bằng phía Nam Dương Tử là người mẹ thứ hai của dân tộc Trung Hoa. Người
ta càng ngạc nhiên hơn khi phát hiện văn hóa Gò Ba Sao (Tam Tinh Đôi) vùng Tứ
Xuyên. Thực tế này dẫn tới sự nghi ngờ về nguồn gốc phương Bắc của con người và
văn hóa Trung Hoa. Có ý kiến cho rằng, có thể sự thực ngược lại, là dòng dịch
chuyển của con người cùng văn hóa từ phía Nam lên.[5]
Tuy đưa ra nhiều nhận định mới
nhưng phải thừa nhận là, những bằng cứ chứng minh của chúng, nhất là về khảo cổ
chưa vững chắc. Việc định tuổi hạt thóc phát hiện ở Non Nok Tha Thái Lan thấp
hơn niên đại do Solheim đưa ra là một gáo nước lạnh dội vào xu hướng này.
Nhưng rồi giọt nước đã tràn
ly. Cuối năm 1998 xuất hiện một sự kiện gây chấn động giới khoa học. Công nghệ
khảo sát ADN người đang sống cho ra khám phá chưa từng có. Nghiên cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc [6]
đưa ra kết luận: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi từ 160.000 đến
180.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm cách nay, con người từ châu Phi theo ven
biến Ấn Độ tới Việt Nam. Sau thời gian chung sống ở đây, người từ Việt Nam di
cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ và 40.000 năm trước lên khai phá Trung Hoa
rồi từ đó vượt eo Beringa chinh phục châu Mỹ…”
Lập tức, nhiều phòng thí
nghiệm di truyền học trên thế giới kiểm định nghiên cứu này. Vài năm sau, hàng
loạt khảo cứu di truyền được công bố, không chỉ đồng thuận với phát hiện trên
mà còn đưa ra những kết quả cụ thể, chính xác hơn.
Xuất phát từ thực tế này, có
những người dựa vào khám phá di truyền học để viết cuốn sử mới cho phương Đông
Bắt đầu là những học giả người
Việt trong nhóm Tư Tưởng ở Úc gồm Luật sư Cung Đình Thanh, Giáo sư Nguyễn Văn
Tuấn và Tiến sỹ Nguyễn Đức Hiệp. Bằng những bài viết từ năm 2001, Giáo sư Nguyễn
Văn Tuấn giới thiệu công trình của nhóm Y.J. Chu, tuy có những hạn chế về số lượng
mẫu vật nhưng là khám phá rất có ý nghĩa trong việc khảo sát quá trình hình
thành dân tộc Việt. Năm 2003, tại Sidney, Luật sư Cung Đình Thanh cho in cuốn Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng
Mới Của Khoa Học. Do tiếp cận tài liệu Genetic Relationship of Populations in China của nhóm J. Y. Chu và Eden in the East của Stephen Oppenheimer
nên công trình của Luật sư Cung Đình Thanh là cuốn sách đầu tiên viết bằng tiếng
Việt trình bày việc: người từ châu Phi di cư tới Đông Nam Á rồi từ đây đi lên
khai phá Trung Hoa. Do vậy, đó cũng là cuốn sách đầu tiên cùng lúc phản bác
quan niệm được thừa nhận rộng rãi là con người từ phía nam Tây Tạng xâm nhập
Trung Hoa rồi đi xuống Việt Nam cũng như quan niệm cho rằng người Việt do dân
cư các đảo Đông Nam Á xâm nhập: “Thuyết của GS. Nguyễn Khắc Ngữ cũng như các GS
Đại học Hà Nội về người Hắc chủng ở hải đảo vào lai giống với người Mongoloid
là tổ tiên của người Việt ngày nay và thuyết của các học giả Pháp và các học giả
người Việt lớp cũ từ Đại Việt sử ký toàn thư đến Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim …
nói về nguồn gốc người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc xuống phải được
đảo ngược lại mới đúng với sự thực.” (trang 298) Có thể nói, ở thời điểm xuất
hiện, nó tiến xa nhất trên con đường tìm về nguồn cội.
Từ năm 2004, khi tiếp cận
công trình của J.Y. Chu, chúng tôi đã dành toàn bộ thời gian cùng tâm lực tìm về
nguồn gốc dân tộc. Từ hơn 10 năm khảo cứu, có thể khái quát lịch sử và văn hóa
phương Đông như sau:
1- 70.000 năm trước, hai đại
chủng Mongoloid và Australoid từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ tới Việt Nam. Tại
đây họ hòa huyết sinh ra hai chủng người Việt cổ là Indonesian và Melanesian,
do người đa số Indonesian (Lạc Việt) lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Khi nhân số
tăng, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ và 40.000 năm
trước, đi lên khai phá Trung Hoa. 30.000 năm trước qua eo Beringa chinh phục
châu Mỹ.
2- Khoảng 20.000 năm trước,
tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, phía Nam Dương Tử, người Lạc Việt chế tác đồ
gốm đầu tiên. Sau đó vào khoảng 12.400 năm cách nay, thuần hóa thành công lúa
nước. Tại văn hóa Giả Hồ tình Chiết Giang, 9.000 năm trước xuất hiện những ký tự
tượng hình đầu tiên. Lúa nước và kê được trồng rộng rãi ở lưu vực Dương Tử và
Hoàng Hà.
3. Khoảng 7.000 năm trước, diễn
ra sự tiếp xúc giữa người Việt trồng kê và người Mông Cổ du mục tại cao nguyên
Hoàng Thổ phía Nam sông Hoàng Hà (người Mông Cổ cũng từ Việt Nam đi lên 40.000
năm trước, nhưng do di cư riêng rẽ tới đất Mông Cổ nên giữ được gen Mongoloid
thuần chủng, được gọi là người Mongoloid phương Bắc- North Mongoloid) sinh ra
chủng người Việt mới Mongoloid phương Nam. Người Việt Mongoloid phương Nam tăng
số lượng, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà.
4. Khoảng 3.300 năm TCN, nhà
nước đầu tiên ở phương Đông được thành lập mà kinh đô là Lương Chử vùng Thái Hồ,
chủ nhân là người Lạc Việt. Theo truyền thuyết thì đó là nhà nước của Thần
Nông. Khoảng năm 2879 TCN diễn ra việc lập nước Xích Quỷ.
5. Khoảng năm 2698 TCN, người
Mông Cổ đánh vào Trác Lộc, chiếm đất của người Việt ở Nam Hoàng Hà, lập nhà nước
Hoàng Đế. Bại trận, người Việt từ lưu vực Hoàng Hà (Núi Thái-Trong Nguồn) di tản
xuống phía Nam, đem nguồn gen Mongoloid về, chuyển hóa dân cư Việt Nam và Đông
Nam Á thành chủng Mongoloid phương Nam.
Từ 2.000 năm TCN, dân cư
Đông Dương cũng như Việt Nam duy nhất là chủng (race) Mongoloid phương Nam gồm
nhiều sắc tộc (ethnicities) khác nhau. Khoảng 500 năm TCN, đồng bằng sông Hồng
hình thành. Các sắc dân Việt từ Đông Dương và Nam Dương Tử tụ về khai phá đất mới.
Những sắc dân Thái, Tày, Hẹ (Hakka) từ Trung Nguyên trở về mang theo tiếng nói đơn âm, hữu thanh. Do sống trong môi trường
thuận lợi về kinh tế và giao lưu văn hóa, lại tiếp thu tiếng nói đơn âm nên tại
đồng bằng sông Hồng hình thành sắc tộc mới, là người Kinh. Do chưa hiểu
nguồn gốc nên trước đây gọi cộng đồng này là người Việt. Như vậy, người Kinh là
sắc dân được sinh ra muộn nhất từ cộng đồng người Việt.
6. Vào Nam Hoàng Hà, người
Mông Cổ bỏ lối sống du mục, học làm nông nghiệp và văn hóa của người Việt. Do sống
chung, lớp người lai Mông-Việt ra đời, tự gọi là Hoa Hạ. Do nhân số ít và văn
hóa chưa phát triển, người Mông Cổ bị đồng hóa về máu huyết cũng như văn hóa.
Do giữ địa vị thống trị, người Mông Cổ bắt cộng đồng nói theo cách nói Mông Cổ
(phụ trước chính sau)
7. Suốt thời kỳ dài, các
vương triều Hoa Hạ chỉ chiếm phần đất nhỏ ở đồng bằng miền Trung Hoàng Hà và
luôn trong cuộc chiến tranh với các nước hoặc bộ tộc người Việt xung quanh.
Phía Nam Dương Tử hoàn toàn là đất của người Việt. Năm 2.200 TCN, nhà nước Xích
Quỷ phân rã, hình thành các quốc gia Việt, Ngô, Sở của người Việt.
8. Cuối thời Chiến Quốc, Tần
Thủy Hoàng diệt lục quốc lập nước Tần, một quốc gia của người Việt. Khi nhà Chu
diệt vong, người Hoa Hạ hết vai trò lãnh đạo. Mặt khác, tới lúc này, người Hoa
Hạ cũng được đồng hóa để hòa mình trong cộng đồng Việt. Lưu Bang vốn người nước
Sở nên nhà Hán do ông thành lập cũng là quốc gia của người Việt. Tuy nhiên, vì
uy danh từ xa xưa của Hoa Hạ nên không chỉ Lưu Bang mà các đế vương sau này
cũng nhận là Hoa Hạ.
9. Từ cuối đời Hán và tiếp tới
sau này, các bộ tộc du mục ở Tây Bắc liên tục xâm nhập, có thời gian dài thống
trị Trung Quốc như Nguyên, Thanh nên rất nhiều người Mongoloid phương Bắc vào
Trung Quốc hòa huyết với người tại chỗ. Nhưng hầu hết họ bị đồng hóa thành người
Mongoloid phương Nam, được gọi là người Hán.
10. Do dân cư Trung Quốc được
hình thành trên nền cơ bản là người Việt nên tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Tiếng Trung Quốc
là tiếng Việt được nói theo giọng và cách nói Mông Cổ (Mongol parlance).
11. Với chúng tôi, việc tìm
nguồn gốc chữ viết Trung Hoa là thách thức
lớn. Sách sử cho thấy, tới giữa thời Thương, các vương triều Hoa Hạ chưa
có chữ. Nhưng khi Bàn Canh chiếm An Dương lập nhà Ân (khoảng 1300 năm TCN) thì chữ tượng hình Giáp cốt văn Ân Khư xuất hiện,
nhưng ở dạng thức đã trưởng thành. Nguyên nhân do đâu?
Tuy phát hiện chữ tượng hình
ở văn hóa Giả Hồ (Chiết Giang) 9.000 năm trước, Bán Pha (Sơn Tây) 6.000 năm trước,
Lương Chử hơn 5000 năm trước nhưng các học giả phương Tây không thừa nhận. Rất
may là vào cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây, khi khai quật những
đàn tế của người Lạc Việt, hàng nghìn mảnh xẻng đá khắc chữ tượng hình được tìm
thấy. Như giọt nước làm tràn ly, hàng nghìn phù tự (chữ dùng để bói toán và
cúng tế) trên các mảnh đá ở Cảm Tang Quảng Tây 6.000 năm trước khẳng định: người
Lạc Việt đã sáng tạo chữ tượng hình khắc trên đá, yếm rùa, xương thú rồi đưa
lên Hà Nam. Khi chiếm đất An Dương, người Hoa Hạ đã sử dụng loại chữ này rồi
phát triển lên. Như vậy, hoàn toan khẳng định, chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa
12. Một câu hỏi nan giải
khác: cây lúa được trồng trước hết ở đâu? Tuy với niềm tin vững chắc rằng Đông
Nam Á là quê hương của cây kê và cây lúa nhưng vì thiếu chứng cứ khảo cổ học
nên không thể đưa ra lời khẳng định. Thật may là vào năm 2012, khảo cổ học phát
hiện tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây cùng mảnh gốm 20.000 năm là hạt lúa trồng
12.400 tuổi. Điều này xác nhận người Lạc Việt thuần hóa cây lúa sớm nhất trên
thế giới.[7]
Trên địa bàn Đông Á, người
Việt đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ mà tiêu biểu là quan niệm Âm
Dương, Ngũ hành, kinh Dịch, kinh Thi, tiếng nói phong phú, chữ tượng hình giàu
biểu cảm…
Những ý tưởng trên đã được
chúng tôi trình bày trong hàng trăm bài viết và năm cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn
Học, 2006), Hành trình tìm lại cội nguồn
(NXB Văn Học, 2008), Tìm cội nguồn qua di
truyền học (NXB Văn Học, 2011), Viết lại lịch sử Trung Hoa (SG Nhà xuất
bản, Amazon phát hành) và Tiến trình lịch
sử văn hóa Việt (SG Nhà xuất bàn, Amazon phát hành).
Có thể khẳng định, những
công trình kể trên mở đầu cho cuốn sử mới và chân thực của phương Đông.
III.
Số phận của nền Sử học không ADN
Khi chứng minh được rằng, con
người từ phương Nam lên, mặc nhiên cả một thế kỷ Sử học lập thuyết trên
cơ sở con người từ phương Bắc xuống sụp đổ!
Một sự thực được phơi bày:
nhân chủng học là khoa học tự nhiên nên việc tìm nguồn gốc con người không chỉ
cần phương pháp luận đúng mà còn rất cần một công nghệ thích hợp. Công nghệ hiệu
quả nhất mà khoa học sáng tạo được ở thế kỷ trước là đo sọ (metric): đo những
chỉ số của sọ người như chiều dọc, chiều ngang, chiều rộng hố mắt, độ nổi của
vành mày, mặt nghiêng hay mặt đứng… rồi từ tỷ lệ giữa chúng mà xếp thành từng
chủng người. Công nghệ này gặp hai trở ngại. Trước hết là những mẫu sọ cổ thường
được phát hiện ngẫu nhiên, vì vậy việc khảo cứu chúng không thể tiến hành theo
hệ thống. Mặt khác, số mẫu vật tìm được thường rất ít. Do vậy khi giải bài toán
thống kê thường độ chính xác không cao.
Công nghệ đo sọ tuy đưa tới
những khám phá ban đầu về nhân loại: Loài người gồm ba đại chủng Australoid,
Mongoloid và Europid… nhưng việc định loại con người ở bậc phân loại thấp hơn (chủng
người race) gặp nhiều khó khăn và thiếu chính xác.
Thất bại của Nhân học đã kéo
theo thất bại của Sử học.
Cho tới nay nhiều sử gia bỏ
công sức khảo cứu về người Việt, người Hán, người Chăm, người Khmer… trong khi
chưa biết mỗi cộng đồng đó có nguồn gốc ra sao, có mối quan hệ với nhau thế nào
nên không thể hiểu họ một cách đúng đắn. Một khoa học mà đối tượng nghiên cứu của nó chưa
xác định được thì có thể khẳng đĩnh, kết quả của nó chỉ là giả tạm.
Có hai lý do để khẳng định Sử
học phương Đông thế kỷ XX chỉ là giả tạm:
1.
Loài người hay một chủng người xuất hiện tới
nay trên mặt đất đều có một quá trình. Nhưng do chưa biết quá trình đó nên các
nghiên cứu về con người đều bỏ qua thời tiền sử để khảo cứu nó từ hơn 2000 năm
cách nay, nhất là dựa vào văn tự. Khi chưa biết gốc thì mọi chuyện nói về ngọn
đều không có cơ sở.
2.
Cũng do chưa xác định được nguồn gốc và quá
trình hình thành của mỗi chủng người nên mọi khảo cứu về nó dựa vào hình dáng,
chất liệu các rìu đá, hoa văn khắc trên đồ gốm rồi ngôn ngữ… đều chỉ là những
chứng cứ gián tiếp, không phản ánh đúng sự thực.
Đúng như nhận định của nhà
nhân học người Mỹ Jared Diamond: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu
xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà không được di truyền
học xác nhận đều không đáng tin cậy.”
Do vậy, có thể kết luận: về
cơ bản, Sử học phương Đông trong thế kỷ XX không phản ánh đúng thực chất những
gì diễn ra trong quá khứ. Đó là nền Sử học đã đi vào dĩ vãng.
Tuy nhiên, có sự thực là, nền
sử học đã chết cả về tinh thần và trí tuệ ấy, như hồn ma bóng quế vẫn tiếp tục
sứ mệnh ngu dân của nó:
Năm 2005, trả lời Đài BBC tiếng
Việt, Giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định: “Quan điểm chung của phía Việt
Nam là công nhận thuyết 'đa trung tâm'. Theo đó, không có một trung tâm
nào trên thế giới, từ đó nghề nông được truyền sang các vùng khác. Các
cư dân Hoa Bắc thời cổ, vốn trồng kê, cao lương và sau là lúa mạch.
Còn các cư dân Đông Nam Á trồng lúa mùa theo các mùa nước.”[8]
Trong cuốn Nguồn gốc người
Việt-người Mường, tác giả Tạ Đức cụ thể hóa ý tưởng của Aurousseau, Đào Duy Anh,
cho rằng, người Lava từ Trung Quốc di cư xuống, làm nên dân cư và văn hóa thời
Phùng Nguyên. [9]
Tạ Chí Đại Trường và các học
giả Mỹ như K Taylor, L. Kelley cho rằng, không hề có nước Xích Quỷ và thời Hùng
Vương trong sử Việt. Người Việt, người Thái… là những chủng khac nhau!
Thay mặt giới sử gia, PGS Lê
Văn Lan tới diễn đàn Quốc hội tuyên bố: Lịch sử Việt Nam chỉ bắt đầu vào 700
năm TCN, khi nhà nước Văn Lang ra đời. Do đó lời nói đầu của Hiến pháp năm 2009
ghi: “Việt Nam có mấy nghìn năm lịch sử”
(!)
Sài Gòn, tháng Sáu, 2016
Tài liệu tham khảo.
1.
Đào
Duy Anh. Lịch sử cổ đại Việt Nam. NXB
Văn hóa Thông tin, 2005.
2.
Carl Sauer. Agricultural Origins and Dispersals, The American Geographical
Society, New York, 1952
3.
Wilhelm
G. Solheim II. New light on Forgotten
Past. National Geographic, Vol. 139, No. 3, Mar.1971.
4.
Stephen Oppenheimer. Eden in the East: the drowned continent of Southeast Asia. https://www.amazon.com/Eden-East-Drowned-Continent-Southeast/dp/0753806797
5.
Hà Văn Thùy. Viết lại lịch sử Trung Hoa. SG Nhà xuất bản.
http://www.amazon.com/Viet-Lai-Lich-Trung-Vietnamese/dp/1500462675/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1407022568&sr=1-1&keywords=ha+van+thuy
6.
J. Y. Chu et al. Genetic
relationship of populations in China
http://www.pnas.org/content/95/20/11763.full
7.
Xianrendong
http://archaeology.about.com/od/xterms/qt/Xianrendong.htm
8.
Nghe phỏng vấn 20 phút với GS. Trần
Quốc Vượng : http://www.bbc.co.uk/vietnamese/programmes/story/2005/03/interviewweek112005.shtml
9.
Tạ Đức. Nguồn
gốc người Việt – người Mường. NXB Trí thức 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét