Kim Định
VI. Những chặng tiến của tâm thức con người theo Quẻ Kiền
VII. Hà Đồ, Lạc Thư trước tình trạng triết lý hiện đại
(Tiếp theo và hết)
VI.
NHỮNG CHẶNG TIẾN CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI THEO QUẺ KIỀN
Sau khi đã
nắm đựơc mấy điểm then chốt về Kinh Dịch thì bước thứ nhì phải học về tiến
trình chuyển hóa của tâm thức con người. Vì đó chính là tinh hoa của Kinh Dịch.
Lộ trình tiến hóa đó được đề cập ngay ở đầu quyển Kinh nơi quẻ Kiền với lời
Kinh như sau:
Kiền. Nguyên,
Hanh, Lợi, Trinh.
(Chữ hán)
Sơ cửu: tiềm long:
vật dụng
Cửu nhị: hiện long
tại điền, lợi kiền đại nhận.
Cửu tam: quân tử
chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược lệ: vô cữu.
Cửu tứ: hoặt dược
tại uyên: vô cữu.
Cửu ngũ: phi long
tại thiên: lợi kiền đại nhân.
Thượng cửu: kháng
long hữu hối.
Dụng cửu: hiện
quần long vô thủ: cát.
(Chữ hán)
Đó là trang đầu
của Kinh Dịch, có thể đại biểu cho cả sách. Chúng ta thấy một lối văn kỳ lạ, và
nếu đừng về lý trí suông thì đó là một đoạn văn nhát gừng không cho thấy được
gì đáng lưu ý đặc biệt, nhất là sau thời kỳ người Viễn Đông được nuôi dưỡng
trong cái học duy lý thì càng thấy xa lạ. Nhưng đã nói nội dung Kinh Dịch có
tính chất lưỡng thê, nên không được dùng lý trí suông để tìm hiểu, vì như vậy
sẽ chỉ thấy được có một chiều. Vậy phải dùng lối quan lối ngoạn, và lúc ấy sẽ
nhận ra đó là một nền Minh triết linh động uyển chuyển. Quẻ Kiền đưa ra bốn chặng
nền móng trong 4 chữ Nguyên Hanh Lợi Trinh.
Nguyên là điểm
khởi phát
Hanh là chặng phát
huy hanh thông
Lợi là chặng tựu
thành
Trinh là kéo dài
thành quả.
Nhìn qua bốn chặng
trên chúng ta liền nhận ra tính chất phổ biến hay là vũ trụ theo nghĩa phi thời
gian nên là miên tục trường tồn. Đó cũng gọi là vòng trong. Trái lại vòng ngoài
thuộc những sự vật bé nhỏ riêng rẽ có hình thể thì quá trình tiến triển đi theo
tứ tự: sinh, thành, suy, hủy. Vì Kinh Dịch chuyên nói về vòng trong nên trình
bày quá trình biến hóa của cuộc đại diễn thuộc vòng trong, nên không nói sinh,
thành, suy, hủy nhưng nói nguyên, hanh, lợi, trinh. Bốn chặng tiến hóa chung
này sẽ được quảng diễn trong 4 hào 2, 3, 4, 5 như sau:
Hào 1-6: hào 1 và
6 đều nói lên chỗ quá đáng nên bảo đừng dùng: “tiềm long vật dụng”. Long là con
vật thuộc huyền thoại không ai thấy, nên Kinh Dịch dùng để chỉ cái đức, cái
linh lực, hay là cái nguyện vọng sâu thẳm nơi con người hướng đến trạng thái
viên mãn tròn đầy cũng gọi là Đạo Thể Viên Dung. Bao lâu chưa xuất hiện cái tâm
thức đó thì không nên dùng: “tiềm long vật dụng”. Nói về triết thì bao lâu chưa
đạt tâm trạng nhân bản tức là biết trọng nhân phẩm và tự do con người và tìm
cách phụng sự con người mà đã vội dùng ngay những dữ kiện của giác quan để lý luận,
tạo tác ra các triết thuyết, thì đó sẽ chỉ là cái học trục vật: y như đất là
đất trải rộng ra trước mắt, bên ngoài con người, hoàn tòan hàng ngang sẽ thiếu
chiều dọc tâm linh, nên là duy vật. Tiềm long là rồng ẩn còn dưới đất. Chữ đất
hay ruộng là do hào 1, 2 thuộc về địa.
Hào 6 cũng thế, nó
chỉ trời nhưng là thứ trời cứng đơ đối kháng với người nên lời Kinh cho là biết
tiến mà không biết thoái “kháng long tri tiến nhi bất tri thoái, chư hán”. Cho
nên dùng nó thì là duy tâm, duy linh một chiều chống đối với duy vật ở hào 1,
cả hai đều song song đối kháng như cái gông dài hai mươi lăm thế kỷ kìm kẹp làm
ngột thở cái hồn Minh triết. Vì khi dùng 2 hào này thì đều là cái học xa người:
trời quá trời, đất quá đất không liên hệ chi với người như hào 2 tuy thuộc địa
và hào 5 tuy thuộc thiên nhưng nằm sát hai hào nhân là 3, 4. Nên dùng 4 hào đó:
2, 3, 4, 5 mớ là “nhân dịch” hay là “kỷ dịch” có hướng nội. Còn khi dùng hào 1,
6 thì ra “vật dịch”. Dùng đến sẽ hối hận: “kháng long hữu hối, chữ hán”. Vì
rằng “cùng chi tai dã, chữ hán”. Cái gì dù cao như trời mà đi đến chỗ quá đáng
thì trước sau gì rồi sẽ dẫn tới tai họa. Như thế chỉ còn lại 4 hào 2, 3, 4, 5.
Hào 2- “hiện long
tại điền” là nói về tâm thức đã khởi xuất hiện trên mặt ruộng. Vì đây là hào 2
thuộc địa nên nói ruộng mà khi giải nghĩa theo lối “kỷ dịch” thì phải hiểu là
tâm trạng thức tỉnh đối với đạo làm người (nhân đạo) nên lời Kinh nói: “Lợi
kiến đại nhân”. Nếu hiểu thấp thì có nghĩa là nên đi gặp ông lớn (để kiếm một
ghế bộ trưởng), nhưng nếu giải theo lối Kỷ dịch thì phải hiểu là “Mỹ lợi” tức
cái “lợi phổ biến của đợt an vi” và câu “lợi kiến đại nhân” chỉ có ý nói cần
phải vượt qua giai đoạn trục vật thuộc hào 1 và 2 để tiến lên đợt Nhân bản tâm
linh. Vì thế lời Kinh thêm rằng: “hiện long tại điền: thời xả dã, chữ hán”, khi
long đức xuất hiện trong tâm hồn nào thì đó là thời xả, thời mà lý trí sẽ lơi
ra khỏi cái nhìn duy địa, duy lý đặng đi đến những chân trời xa lạ của tâm linh
(tiềm thức, vô thức); ở lỳ lại trong chặng lý sự (địa thời) tức là tự giam hãm
mình trong đợt nhị nguyên đối kháng: đất chống trời, trời chống đất cả hai tạo
nên những lý thuyết chống đối tiêu cực hay làtrừu tượng son đẹt, nên cần thóat
ra khỏi đó. Có hai lối thoát: một là bằng kinh nghiệm sống của hoạt động sẽ tả
ở hào 3, hai là bằng lối “thù tĩnh đốc vô vi” ở hào 4.
Hào 3- “quân tử
chung nhật kiền kiền” quân tử suốt ngày họat động. Dùng hai chữ kiền kiền nói
lên tính cách an vi, chú trọng tới làm nhưng không còn chấp đối tượng như có
thể xảy ra ở hào 1, 2. do đó nói kiền kiền mà không nói kiền cái chi, nghĩa là
chỉ có động từ, nên lời kinh còn chua thêm “dữ thời giai hành, chữ hán” luôn
luôn hành động. Hành động mà không có đối tượng để tránh cho lòng khỏi chấp vào
đâu cả, đặng thong thả tiến lên cõi Đạo là cái toàn thể bao la gồm cả trời đất
người chứ không quy hướng vào một đối vật bé nhỏ nào hết.
Đó là lối họat
động, kế đến là lối cảm tình cũng thế: “tịch dịch nhược lệ: vô cữu”, chiều đến
còn như lo săng sắc: không lỗi. Chữ lệ có nghĩa là mạnh mẽ (lệ thanh: lớn
tiếng, lệ tinh: phấn khởi tinh thần) như “lo mạnh”, nhưng không lo về một cái
gì nền toàn bầu tình tứ giốc vào việc lo, nhưng không có đối tượng nên nói “như
lo mạnh: dịch nhược lệ”. Thực ra đây là lo cho Đạo, lo cho đường tiến hóa nên
chữ “dịch” ở hào 3 thêm bộ tâm vào chữ dịch là nét đặc trưng của hào 3 là Nhân
Bản, mà nên Nhân Bản chân thực bao giờ cũng phải chú trọng đặc biệt đến việc
chuyển hóa tâm thức con người nên nói: “cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch, chữ
hán”, do đó mà còn phải tùy thời để cải hóa tâm hồn.
Cũng có một chữ
nữa nói lên tính chất đi vào nội tâm là chữ “tịch”, tịch là đêm tối, nếu ngày
biểu thị ý thực lý trí thì đêm biểu thị tác động huyền diệu của các sức lực
thiêng liêng tai mắt khôngthấy được, nhưng luôn luôn làm việc để đưa con người
đạt tới trình độ thông hiểu để giải thóat. Bởi thế thay vì duy lý thí dụ “ngôn
ngôn thì đây nói “kiền kiền”: thay vì nói lên bứơc rẽ đi từ “vật dịch” tiến vào
“nhân dịch”, “kỷ dịch”.
Vào đến kỷ dịch
thấy mở ra hai lối: một là nhất hạp, hai là nhất tịch. Nhất hạp là lăn lưng vào
đời sống: un engagement, một bước đi vào cuộc sống sinh lý, xã hội như lập gia
đình, tìm địa vị, giúp cải thiện xã hội… Nếu không đi qua đợt này thì khó phát
triển hết mọi khả năng con người, vì đây thuộc giai đoạn tán, tán là một
“nửa” của Đạo: nửa âm; có làm tròn nửa âm thì mới bước sang “nửa” dương, và khi
làm tròn nửa dương là “tụ vào, quy tâm” thì mới đạt Đạo là cái bao gồm cả âm
lẫn dương: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”. Vì thế lời Kinh được bàn rộng rằng:
“Quân tử tiến đức tu nghiệp. Trung tín sở dĩ tiến đức dã. Tu từ lập kỳ thành sở
dĩ cư nghiệp dã. Tri chí chí chi, khả dĩ cơ dã. Tri chung chung chi; khả dĩ tồn
nghĩa dã, chữ hán”.
Muốn lăn lưng vào
đời theo lối hiền triết thì cần tiến đức tu nghiệp. Muốn tiến đức thì phải lấy
hai chữ trung tín làm nền. Muốn tu nghiệp phải biết tu từ để đạt đến độc lập.
Lập là bước thứ ba trong tiến trình học tập gồm 4 bước là học, hành, lập,
quyền. Vậy chớ hiểu tu từ là luyện văn chương hay sáng tác văn nghệ, nhưng phải
hiểu từ theo nghĩa uyên nguyên là lời vôo ngôn hay lời Tự sự theo nghĩa Logos
của cố hiền triết Hy Lạp hay Vac của nền minh triết An Độ. Hiểu cụ thể thì có
thể là những lời trong Kinh Dịch phải biệt ngoạn biết chiêm.
Muốn tu từ theo
nghĩa sơ nguyên thì cần vừa phải biết chỗ chí cực mà cũng vừa phải đi tới chỗ
chí cực. Có thế mới hiểu đặng thiên cơ (là điều cần cho được lập kỳ thành),
phải biết chỗ cùng cực, và làm cho trọn vẹn thì mới tốt nghiệp. Đó là một sứ
mạng gồm cả nội thánh lẫn ngoại vương, nên hết sức cao trọng. Còn nếu để mình
trụt cuống đợt cưỡng hành, lợi hành ở hào 1, 2 thì sẽ chấp vào một đối tượng bé
nhỏ mà không còn là kiền kiền, không còn là triết lý bằng động từ. Vì thế tuy
lo mà không mắc lỗi.
Ở đây nên chú
trọng đến mấy chữ “tri chí chí chi, tri chung chung chi”. Ngược với hào 6 nói
“cùng chi tai dã” hay hào 1 “tiềm long vật dụng”. Tại sao hào 3 hô đi đến cùng
cực mà hào 6 lại nói “cùng cực là tai họa”? thưa khác nhau vì hào 3 thuộc nhân,
càng cùng cực thì càng đi sâu vào nhân tính. Cho nên ở hai hào nhân đều hô đi đến
cùng cực: có chí trung (kỳ trung) thì mới đạt chí hòa. Nói khác nếu hỏi biết
đâu là chí, biết đâu là chung? Thì thưa rằng: chí hay chung đều không ở đây
không ở trời nhưng ở nơi người. Vì thế đến hào 4 nói về nhất tịch, un
désengagement, còn cách mạng hơnnữa là hô nhảy vào uyên tuyền, tức là đi đến
cùng cực.
Cũng nên ghi nhận
xét sau: ở hào 3 cũng như hào 4 đều không nói tới Long, là vì hai hào này thuộc
Nhơn, nên dùng chữ quân tử là chủ thể thay cho chữ Long. Hào 4 không có chủ thế
thì hiểu ngầm là cùng một chủ thể như hào 3.
Hào 4 –“hoặc dược
tại uyên: vô cữu”, hoặc nhảy vào uyên mặc: không lối. Phương pháp “dược tại
uyên” này mạnh hơn lối “kiền kiền” ở hào 3. hào 3 gồm 3 bước, một bước ngầm là
lơi ra khỏi lý trí thuộc hào 1, 2. Còn hai bước tích cực thì một là họat động
(kiền kiền) hai là vun tười tâm tình (dịch nhược lệ). Hào 4 cũng theo hướng “kỳ
dịch” như hào 3 nhưng đi mạnh hơn: về tiêu cực không phải lơi ra khỏi lý trí
nhưng là chống lại lý trí và để sự chống lại được mạnh mẽ thì nhảy vào uyên mặc:
đoạn tuyệt không những với lý trí mà luôn cả với hành động và cảm tình. Vì thế
lời Kinh cho là cách mạng: “hoặc dược tại uyên: kiền đạo nãi cách, chữ hán”,
nhảy vào hố thẳm là cách mạng. Nếu gọi hào 3 là “hữu vi” thì dược tại uyên là
“vô vi”. Tuy nhiên không lỗi vì còn đang trong tiến trình dịch lý là đạo hành
vi, nên được tại uyên chỉ là nói lên tính cách linh động uyển chuyển có lên mà
cũng có xuống: “thượng hạ vô thường phi vi tà dã: tiến thoái vô hằng phi lý
quần dã, chữ hán”, lên xuống không có luật thường miễn là không làm điều tà
vậy; tiến thoái không có luật nhất định miễn không xa lìa xã hội. Tuy nhiên lại
đặt chữ hoặc chỉ ý nghi ngờ vì đây là trạng thức có phần nguy rất dễ ly quần,
xuất thế, nên lời kinh nói:
“Thượng bất tại
thiên
Hạ bất tại điển
Trung bất tại nhơn
Cổ hoặc chi
Hoặc chi giả nghi
chi dã”.
(Chữ hán)
Trên chưa đã trời
(trời khởi từ hào 5, đây mới là hào 4) dưới đã lìa đất (đất hết hào 2) giữa
không ở với người. Vì tuy hào 4 thuộc nhân nhưng cái vị trí (hào 4) là dương:
hào dương ở vị dương cả hai đều cứng: như thế có cứng thiếu mềm khó thích nghi
với xã hội, nên lời kinh nói: cửu từ trùng cương nhi bất trung, chữ hán”: hào 4
hai lần cương thì không phải là trung. Vì trung phải ở giữa cương và nhu. Toàn
cứng thì sao mà trung, bởi vậy khi trải qua giai đoạn này cần phải nghi ngờ mới
không lỗi.
Hào 5- “phi long
tại thiên, lợi kiền đại nhân”.
Hào 5 thuộc thiên
nên chữ long tại xuất hiện. Lần này xuất hiện trên trời, bay lượn thong thả. Đó
là tả cái cảnh đạt Đạo: Đạo của thánh nhân. Lợi kiền đại nhơn: cũng một câu như
hào 2, nhưng ở hào 3 đại nhân được nhắm tới như một ý tưởng. Còn đây là đã đạt
được đích, hành giả đã trở thành đại nhân rồi, nên ở hào 5 kể ra đức tính của
đại nhân như sau:
Phù đại nhân giả
Dữ thiên địa hợp
kỳ đức
Dữ nhật nguyệt hợp
kỳ minh
Dự tứ thời hợp kỳ
tự
Dữ quỷ thần hợp kỳ
cát hung
(Chữ hán)
Thật là đúng nghĩa
đại nhân mà sứ mạng là hòa là hợp là giao là hội (xem Nhân Chủ). Vì cho được
thành đại nhân theo đúng nghĩa thì không còn để mình bị tù túnng trong một cái
duy nào nữa: không duy địa, duy thiên, hoặc duy nhân; nhưng là hợp với linh đức
của trời đất, hợp với sáng soi của nhật nguyệt, hợp với tiết diệu của 4 mùa,
hợp với cát hung của quỷ thần.
Mấy câu này nói
lên mức “chí thành” của hào 5: tất cả những gì đã khởi sự ở các hào 2, 3, 4 đều
được kết tinh nơi hào 5, nên mở ra rộng tới tận cùng bờ cõi vũ trụ, nhờ đó mà
đại nhân đạt độ sáng tác tạo dựng. Tất nhiên không có ý nói về sáng tác văn
nghệ nhưng về “an bang tế thế” khó hơn nhiều vì đòi phải biết đến thiên cơ, để
hướng dẫn thiên hạ. Phải nhìn ra được rất nhiều cách giải quyết cho một vấn đề
và biết chọn một lối ứng đáp thích hợp hơn cả. Nhờ đó trở thành uyển chuyển
linh động khkông bị bò sát vào một lối giải quyết nhưng có thể “vô khả bất vô
khả”. Ai làm được như thế, nếu không phải là bậc “phi long tại thiên” nghĩa là
bay rất cao đặng nhìn rất rộng hầu có thể tạo với tác, nghĩa là thích ứng với
mọi hoàn cảnh. Nếu đọng lại ở “hữu vi” hay “vô vi” thì làm sao linh động được
như thế. Bởi vậy lời kinh nói: “quân tử kiến cơ nhi tác, chữ hán” và “thủ xuất
thứ vật vạn quốc hàm ninh, chữ hán”, người hướng dẫn (đi đầu) thiên hạ, làm cho
vạn quốc được hàm ân, tức là được hưởng an ninh. Vì đó là hậu quả của “thượng
trí dã”. Vì thế lời kinh nói:
Đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu.
Thủy lưu thấp, hỏa
tựu táo
Vân tùng long,
phong tùng hổ
Thánh nhân tác,
nhi vạn vật đổ
Bốn hồ thiên giả
thân thượng
Bồn hồ địa giả
thân hạ
Tắc các tùng kỳ
loại dã.
(Chữ hán)
Nhờ nền minh triết
phổ biến không duy thiên hay duy địa, mà có thủy có hỏa, có lên có xuống, có
thân thượng mà cũng có thân hạ, nênkhông một khuynh hướng nào bị ức chế, nhưng
được phát triển tùy tài. Đó là cái sáng tác của thánh nhân khiến hết mọi người
đều xem thấy đều được hưởng nhờ.
Hào 6- Đã nói
trên: “dùng thì hối”. Lời kinh thêm lý do: “tri tiến nhi bất tri thoái, tri tổn
nhi bất tri vong, tri đắc nhi bất tri táng, chữ hán”, biết tiến mà không biết
thoái, biết còn mà không biết mất, biết đắc mà không biết thất. Đó là lối nhị
nguyên độc khối một chiều, nên thiếu linh động. Vì thế tiếp sang hào dụng cửu.
Dụng cửu: không có
hào 7 mà lại có dụng cửu, đó là một nét đặc trưng của quẻ Kiền. Dụng cửu được
thêm vào để nói lên 7 đợt tiến hóa của con người, vì đó là luật trời “thiên
tắc”. “Kiền nguyên dụng cửu: nãi kiến thiên tắc, chữ hán”, mà thiên tắc là “lục
hào phát huy, bàng thông tình dã, chữ hán”: cả 6 hào phát huy, gần nhau mà
thông hội. Đây gọi là “tắc thiên” cao hơn nghi thiên, oán thiên v.v…
Tại sao trên đã
gạt bỏ hào 1 và 6 mà đây lại gồm cả 6? Thưa không chuyên dùng, nhưng bao hàm do
sự lân cận: hào 2 liền với hào 1 cùng đất, hào 5 liền với hào 6 cùng thiên. Sở
dĩ bao hàm được vì không nói ra, không viết ra. Chính ví không nói ra nên hiệu
năng toàn triệt. Bởi vậy lời kinh nói “bất ngôn sở lợi đại tai hỷ, chữ hán”:
không nói ra nên lợi rất lớn! Và sự không nói diễn đạt bằng câu “hiên quần long
vô thủ, chữ hán”: hiện ra một đoàn rồng không đầu, đòan rồng là 6 hào hay chia
ra ba cặp, chỉ Tam tài quy vào Nhất thể như Đầu. Nhưng Thể đây là tiềm thể u linh
không xuất hiện nên gọi là vô thủ. Nói vô thủ tức cũng là vô vĩ, vô thân, vô
túc, nên không cần chỗ để chân hay dự a đầu. Không có gì nên không phải ở đâu,
đó là thần, vì “thần vô phương”. Chính vì vô thủ nên diệu dụng như thần, bao
hàm khắp hết các đợt tiến của con người và sẽ tùy thời, tùy trình độ mà dùng
hào này hào kia uyển chuyển đặng đi lên trời: “vị bộ nhơn với lập thành, thời
thừ lục long dĩ ngự thiên, kiền đạo biến hóa. Các chính tính mệnh, bảo hợp như
đại, chữ hán”: sáu nấc tiến, tùy thời mà thành tựu. Tùy thời mà cỡi 6 con rồng
để đi lên trời. Thì mọi loài sẽ tiến theo đúng cái tính của mình gây nên cuộc
thái hòa trong vũ trụ.
Đó là lộ trình
tiến hóa được tả lại trong quẻ Kiền nhằm giúp cho mọi vật giữ được tính mệnh để
duy trì sự hòa hợp cùng tột.
Đó là cứu cánh của
conngười mà xưa kia thánh nhân đã nhằm khi làm ra Kinh Dịch với mục đích giúp
con người thuận theo cái lý của tính mệnh: “tích giả thánh nhân chi tác Dịch
dã, tương dĩ thuận tính mệnh chi lý, chữ hán” (thuyết quái 2).
VII.
HÀ ĐỒ LẠC THƯ TRƯỚC TÌNH TRẠNG TRIẾT LÝ HIỆN ĐẠI
1.
HÀ ĐỒ
Hà Đồ và Lạc Thư
là những thực thể văn hóa xuất hiện hoặc bên ngoài Kinh Dịch, hoặc từ Kinh Dịch
nhưng về sau đã được thâu nạp vào Kinh Dịch cách thẩm thấu đến nỗi ngày nay ta
không còn ngần ngại coi đó như phần căn bản của kinh Dịch và nó biểu thị các
chiều kích của tâm thức con người. Nhưng chiều kích đó chỉ là những trạng thức
khác nhau của cùng một thực thể duy nhất, cho nên ta có thể học về Hà Lạc hai
lối: một là trực giác hai là phân tích. Trước hết là lối trực giác như của các
vị hiền triết nhìn bao trùm tất cả mọi trạng thức của một thực thể tâm linh.
Khi nhìn theo lối Viên Dung này thì 4 vòng Hà Đồ biểu thị con đường xóay ốc dẫn
về Đạo thể, tức là đi lên với Tòan thể, phần nào tương đương với con đường đã
diễn đạt trong quẻ Kiền với 4 hào
(Hình)
Hào 2 tương đương
với vòng thành (vòng ngoài cùng)
Hào 3 tương đương
với vòng sinh
Hào 4 tương đương
với vòng hộ pháp
Hào 5 tương đương
với vòng đạt Đạo.
Điều kiện thiết
yếu để các vòng trở thành con đường liên tục đi lên để đạt Minh đức là phải
nhìn trong mối liên hệ của tòan thể, cũng gọi được là cái nhìn tổng quan phổ
biến.
Nhìn theo lối này
thì vòng ngoài cũng gọi là vòng thành vì kép bởi các số thành 6, 7, 8, 9 và
biểu thị vạn vật đã hiện ra hình tích cụ thể, làm đối tượng được cho tai mắt,
cho giác quan, nó là đợt đi ra đến cùng cực của đa tạp và vâng theo luật tất
định của khoa học tức là những luật tắc thuộc toán lý, hóa, sinh v..v… Người ta
thường cho đó là những sự vật tuyệt đối, nhưng triết gia lại cho đó là tương
đối, nghĩa là đối với vòng 2 trong.
Vòng 2 chỉ đợt
sinh vì gồm những số 1, 2, 3, 4 tức là các linh tượng của từng giống loại. Gọi
là linh tượng vì nó không còn hiện racho giác quan và phải có “con mắt thứ ba”
mới “nhìn” ra được. Có “nhìn” ra được linh tượng mới đi đến “tổng hợp” hay nói
theo Kinh Dịch là đi đến “hội thông” (trời, đất, người mà trong Hà Đồ biểu thị
bằng vòng cuối cùng là số 5).
Vòng 3 gồm hai
hàng số 5 điểm đen có thể nói là nhất âm đối với nhất dương là số 5 điểm trắng
vòng 4. nhất âm đây hiểu là hạn từ tiêu cực hay là tiềm thức hoặc vô thức mà
nếu chưa hiểu thì không đi đến được vòng 5 điểm trắng chỉ siêu thức. Việc thấu
hiểu biểu lộ bằng sự chấp nhận. Thường ai cũng chấp nhận chiều tích cực như:
xây dựng, sướng, vui vẻ, sống động… Nhưng rất ít người chấp nhận được khía cạnh
tiêu cực như: phá đổ, khổ sầu, chết, tĩnh v.v… gọi là mệnh; không chấp nhận vì
chưa hiểu được rằng đó chỉ là mặt khác của cùng một thực thể. Thực thể tự thân
là sự quân bình giữa âm và dương, giữa động và tĩnh, giữa sống và chết. Nên chỉ
khi nào nhận thức ra được mối quán thông đó thì mới tiến lên vòng 4. vì thế đây
là chỗ bắt buộc phải dứt bỏ lý trí ý thức đế “dược tại uyên” nghĩa là nhảy vào
hố thẳm của tâm hồn, nhảy tới tận bờ cõi của vô thức để xóa bỏ hết mọi giới hạn
do cái tôi ý thức đạt để, do lý trí phân chia cắt mảnh ra. Có vượt qua hàng rào
này mới đạt tới đợt tối hậu là vòng 4.
Vòng 4 có thể gọi
là siêu thức nghĩa là đi xuống đến cùng tột để đạt thế quân bình với vòng 3 đi
lên đến cùng cực. Nhờ sự quân bình đó nó trở nên Đạo Thể Viên Dung sung mãn bao
gồm tất cả mọi khả năng con người đã được đưa tới chỗ nảy nở tận mức mà Nho
giáo quen gọi là chỉ thành, nên vòng 4 này được biểu thị bằng thập tự nhai mà
căn tính là trung tâm lan tỏa tới khắp chu vi. Điều này được diễn tả bằng nét
ngang chỉ không gian và phi không gian còn nét dọc chỉ thời gian và phi thời
gian. Áp dụng vào con người thì có thể coi đó như sự len lỏi của ý thực cá nhân
vào trong tâm thức vũ trụ, làm cho cái vô hạn xuất hiện trong cái hữu hạn,
thường hằng nhập thể vào thời gian, vô hình ở trong hữu hình… Cho nên người nào
đi tới đây cũng đạt tận cùng của lối về với Nhất thể, cũng gọi là đạt nguồn
sống vô biên của vũ trụ, và cùng với vũ trụ tham dụ trong một tiết nhịp uyên
nguyên của cái tâm thiên địa, đặng tiếp nhận những luồng sáng soi đầy sức linh
động tràn qua, mênh mông bất tận. Đấy là nơi mà Heidegger muốn gọi là Sein, có
thể dịch là Hữu Thể, Tiềm Thể, Tính Thể. Còn Đông phương gọi bằng Nhất thể, Đạo
thể, nhân tính… nhưng không tên nào bao quát hết nội dung. Tuy nhiên chữ Nhất
thể đáng chú ý khi chúng ta nhìn theo chiều hướng “kỷ dịch” và phải viết là…
nghĩa là bản gốc của người sơ nguyên. Có thế mới đạt đựơc thần, mà thần vô
phương nên không lệ thuộc vào nơi nào, để có thể không đâu không ở, để làm chủ
được dịch lý. Hãy mượn câu nói sau của Thiệu Khang Tiết khi giải nghĩa câu “thần vô phương nhi dịch vô thể” để diễn
tả ý đó như sau: “thần giả dịch chi chủ
dã, sở dĩ vô phưong. Dịch giả thần chi dụng dã, sở dĩ vô thể…. Trệ vu nhất phương,
tắc bất năng biến hóa, phi thần dã, chữ hán”: thần là chủ của Dịch nên phải
vô phương. Dịch là dụng cụ của thần nên phải vô thể. Vì nếu ngưng trệ vào một
phương nào liền hết khả năng biến hóa, mà đã không biến hóa thì không phải thần
nữa rồi.
Nói thế có nghĩa
là học triết lý hay học Kinh Dịch mà không đạt đựơc cái thần, thì không đạt
được triết, cũng không hiểu đựơc Kinh Dịch. Bao lâu còn chấp duy lý, thì cái lý
đó rút nhỏ tầm nhìn lại không cho thấy được cái Tòan thể. Nhưng không may đó
lại là sự thường xảy tới, nên chúng ta phải xét qua Hà Đồ theo kiểu nhìn thứ
hai là lối nhìn rời rạc nhị nguyên, cắt xén.
2.
HÀ ĐỒ XÉ LẺ
Lối nhìn thứ hai
là phân tích lý luận, hòan toàn bằng ý thức. Đây cũng là một lối trở về song
đầy cam go mò mẫm và đầy nguy cơ ứ trệ, nhưng nó lại là lối nhìn thông thường
hơn hết, nên chúng ta cần đem ra áp dụng vào tình trạng triết học hiện đại.
Nhìn theo lối phân tích này Hà Đồ cũng vẫn là con đường xoáy ốc đi về Nhất thể,
nên nó cũng cần thiết trong diễn trình tiến hóa của con người vì nó là lối tán
cần để quân bình cho lối tụ. Tuy nhiên lối tán vì y cứ trên giác quan và ý
thức, nên con người dễ hướng theo đến độ làm mất quân bình, nên không nhận ra
được Nhất thể, bởi đó là cái nhìn bị chia cắt ra nhiều đoạn, thiếu biến thông
và trở thành những nền triết học què cụt và đầy rao động đại khái như sau:
Trước hết là cái
vòng ngoài cùng với số thành chỉ những vật đã hiện ra hình tướng khả giác. Nhìn
theo lối phân tích thì đó là những sự vật cá biệt cái này khác cái kia, và
không có liên hệ với nhau chi hết, hơn thế còn đối kháng tiêu diệt nhau. 6 lửa
diệt 7 nước, 9 kim khắc 8 mộc v.v… và mọi người thường chỉ thấy được có vậy, vì
hầu hết chỉ biết có cái nhìn cắt khúc, phần mở và bì phu ngoại diện này, nếu
không đựơc học tập đúng đường thì đều dừng lại ở đợt ấy đến nỗi cả các triết
học gia cũng dừng ngay ở những dữ kiện do tai mắt cung cấp để kiến tạo triết
thuyết. Cái tiêu chuẩn của họ là sự hiển minh khách thể (évidence objective)
nghĩa là họ y cứ trọn vẹn trên các vật thể y như kiểu đám đông vì thế các triết
gia đó thật ra chỉ có lời hay ý đẹp kết cấu mạch lạc, còn trong thực chất thì
cũng xuôi theo cùng dòng với cái nhìn hàng ngang của đám đông: chia cắt ra từng
vật bé nhỏ. Những triết học kiểu đó thì bên Viễn Đông là Mặc Địch, là Hàn Phi
Tử v.v… Bên Tây Au là Platon, Aristote, Descartes… Tuy mấy ông này có vượt xa
Mặc Địch về tư tưởng được kiến tạo nguy nga, lại có đựơc nhiều câu “minh triết”
nhưng những câu này quá ít và nhất là được đưa vào cách vô thức nên không đủ
tác động vào cái cơ cấu chung có tính chất lý trí. Nếu như có ý thức thật thì
một đôi lời minh triết (hiểu là thuộc đợt tâm linh) đủ làmrung chuyển và biến
tính tất cả hệ thống chứ không để nó y nguyên trong bình diện lý trí nhị nguyên
như vậy. Có lẽ Bachelard cũng hé nhìn thấy thế khi ông viết “une notion
dialecticsiséc fait chanter toute la nature” mà ta tạm dịch rộng rãi cho tác
giả rằng: “một ý niệm hiểu cho tới thâm sâu đủ gây âm vang vào cả một hệ
thống”. Bachelard đã hiểu được như câu dịch chưa? Dầu sao thì cho tới nay các
triết học Tây Au đều bị mắc vướng trong cái nhìn một chiều, đồng nhất, độc khối
mất ý thức về nét gấp đôi. Nhiều người hay trích từ Aristote, Platon, Kant một
số câu để giải nghĩa có lợi cho họ, hầu như không kể chi đến hệ thống chung của
họ còn nằm chình ình trong lý trí nhị nguyên. Chính bởi cái nhìn toàn khối đó
mà tôi bảo những lời minh triết gặp được nơi họ tòan là đưa vào cách vô thức:
bởi vì nó đã không lay chuyển đổi hướng được cái hệ thống chung của họ vẫn còn
nằm xuôi theo cùng dòng với cái nhìn hàng ngang của đám đông nằm trọn vẹn trên
cùng một bình diện với lương tri nhìn sự vật ly cách không sao liên lạc được để
làm thành một triết lý cơ thể. Đây là giai đoạn triết học cơ khí, triết học đối
vật (objectivisme), hoàn toàn vắng bóng chủ thể, vắng bóng con người.
Vòng 2 gồm các số
sinh mà khi ta xem tách rời khỏi toàn thể thì chúng biểu thị những nền triết
học bàn về chủ tri với lý trí ý thức tức là vẫn còn thiếu phần tâm linh (tiềm
thức, siêu thức) nên rất trừu tượng và chúng ta có thể gọi đó là triết học duy
chủ tri (subjectivisme) nó phản động lại với triết lý duy vật (objectivisme) ở
vòng một. Ở vòng hai này là một cuộc cách mạng của Descartes hay Kant, hoặc
biện chứng pháp của Hegel, hay duy vật biện chứng của K.Marx, hoặc cơ cấu học
của Lévy Strauss căn cứ trên từ ngữ hay Michel Foucault với óc điện tử… Nhưng
đó cũng chỉ là bấy nhiêu giẫy giụa bất an trong cái vòng siêu hình thóat xác,
không sao vượt khỏi bình diện cá thể, có tính chất duy hiện tượng của vòng
nhất, và do đó chưa có gì gọi được là hàng dọc vũ trụ tâm linh cả. Kant bảo
rằng có sự vật tự thân (noumen) nhưng lại cho là bất khả tri. Đến các người sau
như Hegel tuy có nói đến Thần nhưng cũng là thần trừu tượng lý trí nghĩa là còn
trên bình diện hiện tượng hàng ngang, chưa nhìn ra nhân tính. Hơn thế nữa ngay
đến những người hiện sinh hoặc hiện tượng luận với những tuyên bố về nhân bản,
về lập trường chối bỏ nhị nguyên duy lý, để đi vào cuộc sống thực của con
người, đi vào kinh nghiệm thẳng… kèm theo những lời đề cao nguyên lý bổ túc hỗ
tương, thẩm thấu v.v... Nhưng cuối cùng cũng vẫn còn trên bình diện lý trí
suông, chưa đi đến vòng 3 vô thức. Mộot hai câu nói ăn mày mà trúng cũng chỉ do
lương tri. Càng tổ đánh lừa những triết học gia thiếu tâm hồn triết.
Vòng 3 biểu thị
cho giai đoạn tiềm thức hay vô thức. Đây mới thật là giai đoạn xả, giai đoạn
lơi ra khỏi cái nhìn lý trí ý thức dán lên cá vật phân ly: bởi vì có từ giã hay
lơi ra khỏi lý trí bằng việc làm (kiền kiền) hoặc bằng đôn hậu tình cảm và tiềm
thức (tịch dịch nhược lệ) hoặc bằng thanh tĩnh vô vi (dược tại uyên). Nói khác
dùng những phương thức khác với ý thức lý luận bao giờ cũng bằng ngôn từ. Muốn
đi ngược lý trí hay lơi ra phải có những phương thế vô ngôn tức bên ngoài ngôn
từ. Đấy là một chân lý rất quan trọng nhưng không được nhìn nhận nên biết bao
triết học tuyên dương nguyên lý bổ túc, tương liên, tương nhập, đả phá nhị
nguyên và óc độc chiếm om sòm… mà kỳ thực đó cũng vẫn là những triết lý nhị
nguyên chính hiệu. Cho nên muốn nói đến cách chân thực về bổ túc, về hòa hợp
thì phải có phương thức đi kèm, mới thực là bước vào đợt 3.
Khi bước vào đợt 3
thì tất cả ý thức, lý trí với đối tượng của nó là các cá vật như vỡ lỡ, tan ra
hư vô hết. Tâm thức như không còn chỗ dựa, nên cảm thấy ở bên trong một trạng
huống cô đơn, kinh lạ, như người bỗng bị đẩy ra trước vực thẳm, để đột nhiên
đối diện với sự hư vô trống rỗng toàn triệt, cho nên gây ra một sự hoang mang
rao động như chưa từng thấy trong cõi hiện tượng.
Nói chung đây là
giai đoạn đáng sợ nên gọi là vòng hộ pháp vì khi nhìn hai hàng 5 chấm đen, tôi
liên tưởng ngay đến hai ông Hộ Pháp có vẻ mặt hung tợn thường được dựng trước
cửa chùa để ám chỉ rằng người nào muốn “nhập ư thất” tức muốn đạt Đạo thì phải
trải qua một giai đoạn thử thách cam go, đòi hỏi rất nhiều ý chí dũng mãnh và
can trường nhu để nhảy vào hố thẳm: dược tại uyên. Các nhà huyền niệm quen gọi
đó là đêm tối (Jean La Croix), là “vô cực” (Lão Trang) là thái hư (Phật). Vì ở
giai đoạn này tâm hồn phải vượt thời gian với các vật thể hữu hình, để đi vào
miền xa lạ vô hình, nên phải trải qua những trạng thái cô tịch âm u mà hành giả
nào cũng phải gặp trước khi đạt miền ánh sáng ở vòng 4. Trước khi vào điện Giao
Quang thì Từ Thức còn phải chờ lâu trong trạm Quỳnh Hư. Đó là điểm thông lệ.
Điều đáng phiền là khuynh hướng nằm lỳ tại đây và đề cao điện Quỳnh Hư này, vì
lúc đó nếu không rơi vào chủ thuyết hư vô thì cũng nằm lỳ lại đợt vô vi u tịch,
nghĩa là “thầy” cái vô biên mà không phải vô biên trong hữu hạn (L’infini dans
le fini).
Trạng thái này
hiện đang lan tràn bên Au Mỹ nên chúng ta cần bàn rộng hơn. Hư vô mặc rất nhiều
hình thái, trước hết là phần lớn các nhà huyền niệm mà Tây Âu quen gọi là duy
huyền niệm (mysticisme). Vũ trụ của họ làm bằng những ảo ảnh, hiện ảnh và hay
tràn ra ngoài bằng những cơn ngất trí “xuất thần”. Phần nào đó cũng là con
đường của một số Đạo sĩ phương Đông bỏ xã hội lên núi rừng tìm thuốc trường
sinh với non tiên nước nhược. Kết quả trong thực tại thì chỉ là một thứ tôn
giáo vu nghiễn câu nệ đủ loại hình thức mà bỏ mất tinh thần, hay nếu có thần
thông diệu dụng như hô phong, hoán vũ, đằng vân, độn thổ, thì cũng chỉ xảy ra
torng sách, sách đời xưa. Cái thiếu nơi học là yếu tố xã hội. Mục đích của họ
là “độc thiện kỳ thân” cho nên nếu
không đối kháng kiểu duy lý thì lại xuất thế lên tiên, nghĩa là đi vào phi thực
(iréel): phần nào đó mới là hạnh La Hán ở hào 4, nên lời kinh thêm rằng: “hoặc
dược tại uyên: tực thức dã, chữ hán”, tự thức cũng là tự giác, mới đạt độ “tự
giác mà chưa đạt độ nhi giác tha” của hạnh Bồ Tát. La Hán mới có lên, chưa có xuống.
Bồ Tát có lên (dược tại uyên) mà cũng có xuống (phi long tại thiên). Dược tại
uyên là nhảy vào nội tâm. Nội với lên cũng là một nghĩa. Bay lên trời có nghãi
là trở lại gầm trời, là đi vào cõi người ta; nên lên mà là xuống, xuống mà lên,
đó là ý uyển chuyển trong quẻ Kiền. Bên trời Tây cũng có những đầu óc vĩ đại đã
vung vẫy ra khỏi bầu khí đặc sệt duy lý để tự tiến lên đến tâm linh. Tuy nhiên
có lẽ tiêu phí quá nhiều sinh lực vào việc thoát ra khỏi lưu tục và duy lý, nên
lúc đã “tự giác” thì kiệt lực không còn đủ sức để “giác tha” nữa, nghĩa là mới
có lên mà chưa có xuống, tức là chưa tìm ra được lời thích nghi và giải pháp
hợp với tâm trạng người đời để đưa họ ra khỏi bình diện duy lý nhị nguyên.
Chúng ta có thể kể
vài thí dụ về các triết gia phản lý cho sáng tỏ vấn đề. Trước hết là trường hợp
huyền sĩ Eckhart chưa phân biệt nổi tiểu ngã của xã hội (hữu lý) với đại ngã
tâm linh thuộc vũ trụ (ngoại lý), nói khác mới có nhảy vào Quỳnh Hư mà chưa có
trở lại trần cấu nên chưa nói được lời thích nghi cho tâm trạng đại chúng lúc
bấy giờ, nên sách ông bị cấm.
Trường hợp thứ hai
là Schopenhauer cũng đáng lưu ý. Với quyển “Thế giới như biểu tượng và như ý
chí” ông tỏ ra đã vượt khỏi lưu tục duy lý và đạt tới đợt tâm linh. Nhưng tuy
thân ông đã được an toàn, sách ông không bị cấm, nhưng trong mấy năm trường bán
chạy được có gần chục quyển. Lý do? Vì tất cả giới trí thức đương thời đã bị
ướp kỹ trong chất duy lý tuyệt đối của Hegel, nên chẳng mấy ai hiểu được ông.
Trong suốt ba mươi năm viết bộ triết mà chỉ có một bạn thân duy nhất là con chó
nhỏ Atman. Lối sống quá cô đơn ấy, với những thái độ không tương hợp với triết
lý ông đưa ra (thí dụ ông đề cao khổ hạnh mà vẫn ăn sung sướng và nhất là việc
ông kiện mẹ để được hết gia tài v.v…). Tất cả làm cho người ta càng khó hiểu
ông hơn. Do đó ông mới có lên mà không có xuống.
Người cuối cùng
tôi nghĩ đến là Heidegger, sách ra đời đến vài chục năm mới được giăm ba người
hiểu nổi. Cũng may nhờ đà gia tốc của lịch sử cái gì xưa kia kéo dài từng trăm
năm, thì nay rút lại mươi hai chục năm, nên đã nhiều người bắt đầu hiểu ông. Và
ảnh hưởng của ôong có mòi đi lên. Tuy nhiên “ông
cũng chỉ là cái pháo xì”. Bởi vì ông mới vào đựơc tiềm thể qua đường lý
trí, thì như đã hết hơi: lời ông nói khó khăn như dặn đẻ, đọc lên còn có vẻ
săng sắc lo sợ trước hai ông hộ pháp hữu và vô, chưa đạt đợt quang đại “vị quang đại dã, chữ hán” (quẻ hàm),
chưa phải triết lý an vi ung dung thư thái “dị
giản nhi đắc thiên lý”…
Đó là vài thí dụ
về một số triết gia huyền niệm lãng mạn của Tây Âu. Hầu hết chưa thoát vòng 3.
Lý do có lẽ vì bầu khí quá hữu vi, quá duy lý của Tây Âu, nên khi bước vào đợt
vô vi thì quả là một sự rạn nứt đổ vỡ, để lại trong tâm hồn triết gia những vết
thương quá sâu đệm, nên họ nói rất nhiều, quá nhiều về những trạng thái cô đơn,
buồn nản, phản lý mà lại không đưa ra được những phương thế với những lối nói
thích nghi thì làm sao đại chúng hiểu nổi họ: do đó mà lối phi lý cùng với duy
lý cứ song song chạy miết chẳng bao giờ gặp nhau ở chốn “hội thông”. Bên phi lý
thì coi bên duy lý “là một đoàn cừu toàn triệt không một đứa chăn” (Nietzsche).
Bên duy lý ngược lại khi nghe tin Nietzsche phải vào nhà thương điên thì hạ một
câu tàn nhẫn “tri nhân thiện nhậm”, “The
right man in the right place”.
Tình trạng giằng
co giữa hữu vi và vô vi đó, giữa duy lý và phi lý cực đoan đó đã đưa triết học
đến chỗ thất bại. Lý do sâu xa là chưa ai đạt vòng 4 của Hà Đồ. Tất cả hoặc còn
ơ đợt nhập của hai vòng 1, 2 hoặc xuất ở vòng 3. Chưa đạt vòng 4 hoặc hầu hết
như thế, và đó là lý do sâu xa nhất của bi trạng triết học hiện nay, một giai
đoạn rất giống với sự sa đọa mỗi khi con người ngơ ngác bất định giữa hữu vi và
vô vi, chưa đạt an vi. Vì thế trong làng triết có một hiện tượng kỳ lạ cho tới
nay chưa ai lưu ý để tìm ra lý do: đó là hầu hết các triết học gia lớn của Tây Âu
càng học thì càng quẩn: Socrate từ một hiền triết trở thành biện luận gia số 1
(Sophiste). Platon khi viết Timé hay Phédon thì bay bổng cung mây, đến lúc già
viết bộ Les Lois thì lẩm cẩm quay ra
chống đối tự do suy tư, nghĩa là hoàn toàn phản cách mạng. Descartes thì tuyên
dương lương tri, như vậy thì bám sát nút đại chúng, không cất mình lên được
chút gì. Còn Kant thì Nietzsche nhận xét rất xác đáng là chỉ sản xuất nổi một
thứ triết cho các giáo sư nghĩa là hoàn toàn trường ốc, cắt đứt liên lạc với
sinh trường sống động. Trong cuốn Critique de la raison pure, ông đã hé nhìn
thấy bản thể tự nội, nhưng lần tái bản lại xóa bỏ “óc siêu tưởng” để trở về với
lý trí thường nghiệm, nên cuối cùng ông gọi triết là một thứ cực hình (suplice
de Tantale).
Hegel tự việc đưa
con người lên địa vị Thượng Đế đang hình thành, cho đến cuối đời đốc ra một bồi
bút trên các thứ bồi bút bằng một thứ tôn giáo thờ chính phủ như Thượng Đế, còn
cá nhân thì ông coi như phương tiện bèo bọt… Thế là trói gọn con người nộp cho
chính quyền chuyên chế. Triết học mà đã xa lạ đối với người học, thì phương chi
đối với quảng đại quần chúng càng xa lạ hơn nữa và đó là căn nguyên mọi tai họa
đổ vỡ tán loạn trong thế giới ngày nay. Triết học chính ra là bà chúa mọi khoa
học, ngày nay trở thành một trong các chuyên khoa và người học hóa ra chuyên
viên, khác chăng là không biết chuyên viên đó có dùng vào được việc chi ơn ích,
hay xã hội lại phải nuôi báo cô?
3.
LẠC THƯ
Khi viết Kinh
Dịch, các hiền triết đã tiên đoán được trường hợp đó nên đưa ra Lạc Thư để giúp
đi đến độ an vi.
(Hình)
Lạc thư hàm ngụ
triết lý an vi là nền triết của những người biết “ở đời” cần nói vắn tắt gọn
gàng để có đủ giờ dành cho hoạt động. Hà Đồ có thể nói là triết lý của các tu
sĩ xuất gia có nhiều thì giờ để đi qua vòng sinh, rồi vòng hộ pháp. Vì hai vòng
nay dễ làm người ta sa lầy. Vòng sinh sa lầy vào những ý niệm trừu tượng, son
đẹt không gây nổi tác động. Vòng đen dể sa lầy vào những kiểu nói biếm lý, phản
lý, ngoại lý, là những cái dể gây hoang mang và đảo lộn có nguy xa đời, lìa
thế.
Lạc Thư trái lại
dồn hết cả số sinh vào số thành làm nên một vòng; để chúng bắt liên lạc với
thập tự nhai ở giữa. Thập tự nhai là Nhất thể, là gốc bổn của trời, đất, người
tức là cái gì phổ biến chiếu giãi thẳng vào vòng ngoài lúc này không chỉ có số
thành mà đã xen số sinh, tức là vô biên đã nhập cuộc với hữu hạn, Thường Hằng
thẩm thấu vào thời gian, không gian. Cái nhìn đạo thể vô biên đã mặc lấy xác
hiện tượng và nhân sinh. Ở vòng sinh thì chỉ có nhìn những ý niệm phổ quát tách
rời khỏi toàn thể nên dễ rơi vào triết học duy lý trừu tượng không gây nổi ảnh
hưởng vào thâm tâm hay đời sống. Ở vòng hộ pháp lại chỉ thấy sự trống rỗng, vô
thường của hiện tượng nên đâm ra ngán đời đến độ lẩn trốn; bởi cái nhìn chưa đủ
sức chuyển hóa những hiện tượng hay cuộc sống trong xã hội thành những trạm
chiếu giãi Đạo thể vô biên, Lạc Thư tàng chứa nền Minh triết đã vượt qua hai
loại nguy cơ đó để đi thẳng vào trung cung là nhân tính phổ biến, và từ đấy
chiếu giãi ra vạn sự vạn vật, gây nên mối thái hòa tức hòa theo lối tam tài là
lưỡng nhất tính: vòng ngoài có thành có sinh, các số 1, 2, 3, 4 chen kẽ với các
số 5, 6, 7, 8 như vậy là lưỡng, còn Nhân tính ở trung cung là Nhất, tức là Nhất
thể Tâm linh, bao trùm lấy hai cực sinh, thành và điều hợp tất cả trong một nền
thống nhất sống động uyển chuyển. Nhờ đó triết gia không ly thế cũng không trừu
tượng, song là lăn lưng vào việc, nhưng khác thông tục ở chỗ ý thức được Đạo
(số sinh) nằm ngay trong đời (thành). Khỏi cần đi tìm Đạo xa xôi trên núi hay ở
đâu đâu, nhưng ngay trong những việc thường nhật, những việc căn bổn nhất của
xã hội: tề gia, trị quốc, an quốc, nên gọi là triết lý an vi, để biểu lộ sự
nhập thể của Thường Hằng. Bởi vậy đem ngay những con số của Lạc Thư ra làm ngăn
chứa đựng các việc của con người sống trong xã hội, và gọi là Hồng phạm (xem
hình liền sau và xem giải rộng trong quyển chữ Thời, chương triết lý Hồng
phạm).
4
Ngũ kỷ
9
Ngũ phúc Lục cực
2
Ngũ sự
3
Bát chánh
5
Hoàng cực
7
Kê nghi
8
Thứ trưng
1
Ngũ hành
6
Tam Đức
Phạm là mẫu mực,
Hồng là lớn lao, tức là cái mẫu phổ biến (thập tự nhai) chiếu giãi vào sự vật,
cũng như mọi hành vi tác động con người không gì phải khẳng định kiểu duy lý,
hay phủ định kiểu phi lý, nhưng là hàm lý chấp nhận cả lý cả tình, cả ý thức
lẫn tiềm thức, nên không có triết l ý mà lại có, có mà lại không. Đó là nền
triết lý an vi rất khó được nhìn nhận vì nó kết tinh ngay vào những việc ăn làm
hằng ngày: tu, tề, trị, bình… mà không mặc một hình thức riêng biệt, nên dễ lọt
mắt xanh các triết học gia.
Những người này
thường chú tâm đến những cái gì khác thường thí dụ những hệ thống triết ở hào 1
và 2 rất dễ nhận, vì nó trừu tượng nghĩa là xa người, khác với người như một
đối vật nên người dễ nhìn thấy.
Hoặc những phương
thức vô vi ở hào 4, càng là cái gì phi thường, đập vào mắt mọi người. Mọi người
đang nói có, mà một người nói không thì tất nhiên nổi bật ngay ra ngoài đám
đông ai cũng nhận ra được. Chí như hào 5 hợp với Lạc Thư lại là những gì rất
thường thường nên không được chú ý.
Sở dĩ như vậy vì
người ta không nhận ra những cái thường thường lại là những yếu tố căn bản: ăn
mặc, quản trị gia đình, những mối giao liên hằng ngày trong xã hội… đó toàn là
cái thường vì xảy ra luôn luôn. Nhưng chính vì nó là căn bổn nên mới năng xảy
ra và vì nó năng xảy tới nên quá thường bởi vậy không được triết học gia nhìn
ra sự quan trọng. Nhưng chính vì sự không nhìn ra tầm quan trọng của những cái
thường đó nên đời sống mới thiếu triết lý soi đường. Bên Tây Tạng có vị Phật
gọi là “thành sở tác trí” (Amoghasiddhi:
sagesse qui accomplit toutes les oeuvres) phần nào giống với triết lý hào 5
hay Lạc thư, nghĩa là một vị Phật giống Bồ Tát, chú trọng đến việc trở lại độ
thế. Tôi nói phần nào, vì Phật này vẫn còn là vị tu hành, cũng đi qua vòng hộ
pháp, nên có bản dịch là “Bất không thành tựu như lai”. Chữ “bất không” biểu lộ
đã vượt qua vòng đen, để thành tựu ở vòng 5 “thành nhân tác dã”. Cái khác nằm
trong hai chữ “thần thông” (siddhi) là những tác động phi thường để làm những
việc rất thường của tề, trị, bình. Nói “thường thường” là nói theo thông tục,
thực ra thì không có một việc nào hay biến cố nào giống nhau nên muốn thành
công cần óc sáng tạo rất nảy nở nghĩa là đòi một khả năng sáng tạo phi thường.
Mà cho được như thế thì phải tiến lên thực cao: vì mỗi bước đi lên của tâm thức
đều mở thêm ra nhiều khả năng, nhiều lối giải quyết cho một vấn đề. Cần phải
lên tới cùng cực của bậc thang tiến hóa mới trông tìm ra cho mỗi vấn đề, mỗi
việc một lối giải quyết riêng biệt, thích ứng hơn hết. Được như thế thì mỗi giải
quyết là một sáng tạo, nên hào 5 nói: “Đại nhân tạo dã, thành nhân tác dã, chữ
hán”… Những câu đó đều nói lên chiếu hướng “triệt thượng” cũng như “triệt hạ”
của nên minh triết Lạc thư của Lạc dân. Đó là sứ điệp tiên tổ giối lại để chúng
ta khai thác ra và gửi tới con người hiện đại. Con người hiện nay sống trong lo
âu sợ hãi đầy bấp bênh đang cần một triết lý an thần. Và đó chính là nền triết
lý phát huy từ Lạc Thư. Chữ Lạc là sông Lạc, nhưng nội dung trung thực bao gồm
ý nghĩa lạc là an vui hòa vui thanh thóat, khác hơn thái độ “dược tại uyên” hầu
hết mới là chấp nhận chịu vậy nên tâm trạng thường là bi đát, xao xuyến vì như
vừa bị nhổ mạnh ra khỏi những bàn tay tuộc của hữu vi, nên còn đầy run sợ loa
âu cám cảnh của hào tư mà chưa đạt hào năm biểu lộ bằng sự đón cháo cách tưng
bừng tâm trạng mới vì rất tự do đầy tràn giải thóat, đến nỗi giải thoát lan tới
tận những việc thường ngày. Và bởi vậy thay vì bi đát, thì là tâm trạng an
nhiên tự tại yêu đời dấn thân. Đó là tinh hoa của nền Minh triết Lạc thư của Lạc
Việt. Vì thế Lạc Việt có thể tặng cho thế giới một món quà tinh thần vô cùng
quý báu mà chúng ta sẽ học cách chu đáo hơn trong các tập sau như “Lạc Thư minh
triết”, và “Sinh hóa”… Trong khi chờ đợi xin đọc kỹ lại nhiều lần để ngắm vào
hầu sửa soạn tâm thức đón nhận những quyển sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét