THỬ MÁU VĂN HÓA VIỆT
Kim Định
Huyền sử là một loại sử có biên cương ẩn hiện trùm lên
cả sử ký lẫn cổ sử và tiền sử, nó không có những chứng liệu đích xác như sử ký
vì phần nhiều nó phải tìm chất liệu trong huyền thoại là thứ mà ý nghĩa lùng
bùng như cao su ai kéo chiều nào cũng được. Vì thế việc giải nghĩa huyền sử vốn
đã là chuyện khó, còn trở nên khó hơn thập phần phức tạp vì các huyền thoại đã
hầu hết bị giật ra khỏi môi sinh tinh thần của chúng, bị chặt nát bét ra, ghép
lại lộn xộn: râu ông cắm cằm bà là chuyện rất thường. Vì thế chẳng mấy khi dùng
được huyền thoại y nguyên, mà phải dày công so đo kê cứu. Để chứng minh
điều đó, nhân tiện cũng là nhắn gửi những ai muốn đi vào huyền sử phải gia tăng
chăm chú trong việc thâu thập tài liệu: phải đọc nhiều đã vậy nhưng nhất là
đừng đọc bản tóm, vì bản tóm đánh mất hầu hết những mối liên hệ nằm ngầm thường
ẩn trong những tiểu tiết thoạt nhìn tưởng như vô tích sự. Bài này sẽ đưa ra ít thí dụ, phần lớn xoáy vào
Si Vưu một “nhân vật” bị hiểu lầm nhiều nhất, nhưng lại đóng vai trò lớn trong
khúc quanh lịch sử của Viêm Việt. Si Vưu có tên được ghi ngay trang đầu huyền
sử nước ta rằng “Đế Nghi muốn bắt chước
Đế Minh trong việc tuần thú phương nam nên trao nước lại cho Si Vưu rồi lên
đường nam tiến”. (Xem Kinh Hùng số 3) Như vậy thì Si Vưu là họ hàng nhà, cớ
sao trong dĩ vãng lại bị coi là giống ác độc? Cần phải tìm cho ra nguyên uỷ vụ
này. Để làm điều đó ta hãy thử dùng một phương pháp mà tôi gọi là thử máu văn
hóa xem Việt có loại máu nào? Si Vưu có cùng loại máu với Việt tộc chăng? Đây
chính là lối nhận họ văn hóa một cách khoa học hơn hết. Muốn thử máu Việt tộc thì dễ, vì huyền sử nói nước Việt thuộc “mẹ tiên
cha rồng” (long phụ tiên mẫu). Như vậy nếu nói cho có vẻ khoa học thì đó là
loại máu TR (tiên rồng) tức là loại máu cao trọng và siêu việt hơn hết, nên
tiên đựơc chỉ bằng một loại ngỗng trời (Hồng) cũng gọi là thiên nga: hàm ý bay
thấu tới trời. Đó là dòng máu mẹ. Còn dòng máu cha rồng thì lặn sâu
tới tận đáy bể: tức không còn thể sâu hơn được, nên trong huyền sử đấy đại
dương thường được dùng để chỉ thị những chân lý sâu xa nhất. Muốn nhận họ ta
chỉ việc xem ai có dòng máu TR thì nhận là có họ không sợ sai; nhưng trong thực
tế sự vụ lại không dễ dàng như vậy vì xuyên qua nhiều hoàn cản dòng máu TR đã
biến thể rất nhiều thí dụ về Si Vưu là loại máu SV nhưng cũng có tên QH hay LM…
Vậy trước hết ta hãy phân chất máu SV của Si Vưu coi thử có họ với dòng máu TR
chăng. Rồi lần lượt tới loại máu QH và LM. Điều trước hết ta thấy Si Vưu thuộc dòng dõi Thần Nông, đầu cũng có sừng
y như Thần Nông, nên nhờ Thần Nông có họ Khương (chữ hán). Chữ Khương có bộ
dương trên với hai cái ngà. Vậy là văn hóa nông nghiệp lúa mễ. Đó là điều hợp
đầu tiên với dòng máu TR. Điều thứ hai Si Vưu cũng có tên khác là Thao Thiết sinh bởi ông Quỳ và
bà Huyền Thê, như vậy là thuộc loại máu QH, tức họ máu hàng dọc với loại máu
TR. Vì Quỳ cũng là rồng, Huyền Thê cùng họ với huyền điểu thuộc tiên, nên nói
ông Quỳ lấy bà Huyền Thê cũng như nói Âu Cơ lấy Lạc Long Quân: hai loại máu QH
và TR. Có bản đọc Li Vưu thì cũng không xa vì Li là rồng vàng, còn Vưu là
thượng thặng “par excellence”: nói về người đàn bà tuyệt đẹp người ta dùng chữ
vưu vật. Như vậy Li Vưu là rồng vàng thuộc Hoàng Việt (Hoàng có nghĩa là Vàng).
Cũng trong vòng chữ li, Si Vưu còn gọi là Li Mị với nghĩa là thần đầm ao (li)
và thần núi (mị) như vậy là nói kiểu khác hai chữ non nước hoặc tiên rồng: li
là rồng, mị là tiên (tiên ở trên núi).
Về chữ li mị này
(chữ hán) có sự rắc rối vì người Tàu đọc là Si Mị. Từ điển Từ Nguyên cho cách
đọc là “sách y thiết như si chi vân” và giải nghĩa rằng “theo thuyết xưa thì li
giống như rồng vàng, không ngà”. Còn người Việt ta lại đọc Li Mị. Người xưa
khắc hình thứ rồng này vào đầu cột nhà và gọi là Li đầu. Người Tàu đọc Si đầu,
ai phải? Theo luật chung thì chữ kép có hai bộ phận, một bộ là để hội ý, một bộ
là hài thanh: như chữ li thì có bộ trùng (hán) hội ý chỉ con vật, còn li là
phần hình thanh. Vậy đọc li là phải. Tại sao Tàu đọc Si căn cứ trên bộ trùng mà
Tàu phát âm gần như si. Vậy chữ li bỏ đi đâu? Cho nên ta suy đoán được rằng đó
chẳng qua là cái thuật chiến tranh chính trị, chiến tranh tâm lý. Li Mị là thủ
lãnh các dân Man Di nên thay vì Li Mị thì đọc là Si và gắn liền vào Mị (hán)
viết với bộ quỷ cho thêm bệ rạc để chỉ những tinh quỷ trên núi, theo đó ta có
thể hiểu Si mị chính là li mị bắt nguồn từ những kháng chiến ẩn nấp trên núi để
chống Hoa tộc xâm lăng, coi như “xuất quỷ nhập thần”. Còn nghĩa đơn sơ thì hiểu
được là con rồng vàng (li) của dân Mị (nhớ Mị là họ rất lớn trong Sở, tức là
Kinh Man, Kinh Việt, cũng là họ lớn trong nước Văn Lang). Ta đọc Mỵ Nương,
người Mường đọc là Mễ Nàng gì đó. Vì sự biến thái của ngôn ngữ, nhiều khi do sự
cố ý của kẻ thắng nên sau con cháu không nhận ra được họ hàng giữa Việt tiên
rồng với Si Vưu, Li Vưu, Li Mị. Khác tên nhưng cũng họ máu. Và xin đề nghị từ
nay ta sẽ đọc Li Vưu.
Cũng trong ý đồ đánh lạc hướng nọ chữ Bàn trong tên Lộ Bàn Lộ Bộc có
liên hệ với Bàng, Bành, Bà, Ba (Hồng Bàng, Bành tổ, Bành Lãi, Hồ Bà Dương cũng
đọc Ba Dương) phát nguồn từ rồng quận khúc có tên là Bàn Quỳ, lại bị đèo theo
một âm là phiên để chỉ những sâu bọ bên dưới chum (lu) lọ là để nhằm hạ đối
phương. Các thể rồng khác của Việt đều bị hạ như vậy. Quỳ là rồng đầm ao thì bị
Hoàng Đế bắt lột da bưng trống! Lúc ấy Tàu chưa nhận rồng làm vật biểu, rồng
mới là của Việt nên bị khinh khi. Tuy nhiên truy căn thấu đáo mới nhận ra Li
Vưu thuộc dòng máu rồng tiên nên loại màu LV
này cũng là họ máu hàng dọc với loại máu TR. Li Vưu còn là tên một ca đoàn trưởng, một vũ đoàn gồm 81 người, có khi
72. Trong đoàn vũ có một người mang cái nõ bự. Rõ ràng là hình ảnh đoàn vũ
trong trống đồng cũng có cái nõ bự. Nõ là khí dụng riêng của Việt tộc có nói
đến trong truyện thần Kim Quy. Tàu lúc xưa mới có cung, chỉ có đòn ngang, phải
có thêm đòn dọc nữa như chữ Đinh T mới ra nõ. Chữ nỏ là do phiên âm tiếng Việt:
nõ, ná. Tự điển Từ Nguyên có cho Si Vưu sáng tạo ra dao, kích, và đại nõ. Dao
đây là thứ dao cong cũng gọi là Côn Ngô dùng trong việc tế tự, nó cùng loại với
cái phủ việt cũng lưỡi cong (hình phủ việt). Kích cũng tên là cái qua đã bàn
trong Sứ Điệp với bộ hình vài ba. (Hình phủ việt)
Còn rất
nhiều truyện về Li Vưu, nhưng bằng ấy tưởng tạm đủ để chứng minh Li Vưu cùng
một dòng máu TR như Việt tộc, cùng bộ cơ cấu “vài ba”. Nên nhớ bài vũ đầu tiên
của Việt nho có tên là “lưỡng lưỡng tam tam” chính là bài vũ Li Vưu, căn cứ
trên bộ số nền tảng “vài ba tham lưỡng” đó.
Li Vưu cũng
còn được gọi là nhà lãnh đạo của Tam Miêu một chi dẫn đầu của Cửu Lê mà Cửu Lê
là toàn khối người Thổ trước (Viêm tộc) đã cư ngụ rải rác trên toàn cõi nước
Tàu lâu, rất lâu trước khi người Tàu xuất hiện như một dân tộc. Đoàn vũ có 81
người đó là 9*9 = 81; căn 9 là 3. Còn 72 là 8 hàng vũ 9 người. Chữ Tam trong
Tam Miêu nên hiểu là số 3 căn của 9 (Cửu Lê) tức cùng loại cơ cấu “vài ba tham
lưỡng” và 3-9 được cụ thể vào 3 hồi 9 tiếng trống vẫn được khua lên trước mọi
cuộc hội hè của Viêm Việt. Chữ miêu theo nghĩa nguyên thuỷ là mạ, chỉ nông nghiệp
ruộng nước (lúa mễ) có gieo mạ. Lúc mễ mọc ở Đông Nam trước sau đã lan lên tận mạn
Bắc Tàu, rồi do đó đôi khi có nghĩa chung chỉ cốc loại vì tính chất phổ quát
của nó.
Thế nghĩa là đất Tam Miêu cũng chính là
đất của Văn Lang và nó trải ra cực kỳ rộng có thể nói khắp cõi nước Tàu, mãi
cho tới sau này trong các sách Tả truyện, Chiến Quốc Sách… vẫn còn thấy Tam
Miêu chiếm cứ toàn vùng Hồ Bành Lãi, Động Đình, Vân Sơn, Thái Hồ tức hợp với
hai châu Kinh và Dương của Lộc Tục xưa. Nhưng trước nữa theo Kinh Thư thì thấy
Li Vưu được thờ ở Sơn Đông, ở nước Tề, lan cả lên Mãn Châu; phía Tây thì lan
đến núi Tam Nguỵ vùng Cam Túc, tức toàn cõi nước Tàu. Vì thế các học giả đời
nay gọi Tam Miêu hay Cửu Lê là liên đoàn các dân hoặc liên bang các dân:
Confraternities of people, Confederation of people. Need II. 117. Tự điển Từ
Nguyên dẫn sách Lễ Ký (theo lời giải nghĩa họ Trịnh) gọi Tam Miêu là Li Vưu và
sách Thượng Thư Khổng Truyện cho Li Vưu là Cửu Lê, rồi cho hai sách đó bất
đồng. Sự thực rất đồng tức Li Vưu hay Tam Miêu là chi lãnh đạo của Cửu Lê
(3*3=9). Lê, Lộ (Bàn) Lạc, Lai cùng một họ. Ta có thể gọi gồm tất cả các thứ
dân đó vào hai chữ Tứ Hải hay Tứ Di, rồi sau biến ra Bách Việt… đều chỉ toàn
khối các dân cư ngụ trong nước Tàu đã có lâu trước dân tộc Tàu. Huyền thoại nói dân tộc Tàu đã xuất hiện với Hoàng Đế. Các nhà khoa học
nay cho đó chỉ là sự hoàn toàn bịa đặt (pure phantasy, Legge) vì không tìm được
di vật khảo cổ nào chứng minh. Nhưng ta có thể cấp cho Hoàng Đế một thẻ căn
cước theo lối huyền sử để giúp vào việc hiểu biết hơn về mẫu người đại diện văn
hóa nông nghiệp Đông Nam là Li Vưu, tức coi Hoàng Đế là một mẫu người đại diện
cho nền văn minh du mục phát xuất từ Tây Bắc. Theo sách Trúc Thư Kỷ Niên thì
Hoàng Đế có tên là Hữu Hùng và Hiền Viên. Cả ba tên đều nói lên tính chất du
mục xâm lăng. Thứ nhất là chữ đế chỉ đế quốc, chiếm đoạt. Thứ hai đến chữ hùng
là con gấu: rõ ràng du mục vì du mục thường nhận ác thú làm vật tổ, những bức
chạm trổ người có hình hổ tìm được ở Sơn Đông hẳn phải có liên hệ với Hữu Hùng
ở đây. Thứ ba Hiên Viên tuy là tên núi mà cũng có nghĩa là xe nói lên liên hệ
với công và thương gắn liền với du mục, y như sĩ, nông đi với nông nghiệp. Sách
Thế Bản gán cho Hoàng Đế nhiều phát minh, điều đó rất đáng ngờ, nhưng có điều
chắc là ông khởi đưa vào Tàu 2 yếu tố văn minh, một là luật hình đối nội, hai
là chiến tranh chiếm đoạt đối ngoại (Kwang I. 216). Xin nhớ văn minh ở đây hiểu
trong liên hệ với thành thị, còn văn hóa hiểu liên hệ với nông nghiệp, nông
thôn (Civ. I. 2). Theo đó thì Hiên Viên chinh phục Li Vưu tức là du mục lấn át
văn hóa nông nghiệp; thị xã lấn át nông thôn v.v… Chắc vì lý do sâu xa này mà Hiên Viên có tên
là Phong Long tức thần sét (lôi công). Ông có được một người con gái đặt tên là
Nữ Thần Bạt chủ về đại hạn. Rõ ràng là những dấu chống Li Vưu vốn có hai thần
gió và mưa phụ tá chỉ nông nghiệp ruộng nước sợ đại hạn cần mưa. Đó là những
khía cạnh đối kháng của hai nền văn hóa mà hai trận tuyến đã khởi từ xa xưa:
một bên Hoàng Đế đại diện văn minh, bên kia là Li Vưu đại diện văn hóa. Nói
theo Hoàng Đế đại diện kỹ thuật còn Li Vưu đại diện tình người (nhân bản). Vì
thế trận tuyến đó sẽ còn diễn dài dài vì là cuộc chiến thuộc văn hóa: bên nông
bên du chẳng bao giờ hết được. Về mặt quân sự Hoàng Đế đã giết Li Vưu, đã đánh
tan Tam Miêu, vậy mà cho đến “cháu 5 đời” là Nghiêu vẫn còn bị phiền hà với Tam
Miêu. Ông Thuấn cũng phải đánh dẹp và cho là xong, thế mà đến đời ông Vũ còn
phải cất quân đi đánh Tam Miêu nữa và thua, đành trở về mặc áo lông chim rồi
dùng cái mộc và giáo mà múa: lúc ấy Tam Miêu mới chịu phục. Như vậy có nghĩa là
ông Vũ phải múa theo kiểu Tam Miêu, tức có mang lông chim khi múa, nói vắn tắt
là phải theo văn hóa Tam Miêu. Y như trước kia Hiên Viên cũng thế, các nhà khoa
học cho là Hiên Viên đã tiếp thu phù hiệu và biểu tượng với các kỹ thuật của Li
Vưu, nhờ đó mà Hoàng Đế “trở nên nhà sáng tạo đủ điều” nào là đúc đồng, đúc
trống, nào là làm nhà, dệt vải… Sự thực không phải là sáng tạo mà chỉ là “tiếp
thu” của Li Vưu. Đại để đó là hậu quả chiến cuộc giữa Hiên Viên du mục và Li Vưu nông
nghiệp. Được thua, thua được lẫn lộn, trận tuyến thì rộng lớn không những về
quân sự; chiếm đất chiếm người, mà còn kéo theo mặt trận tâm lý chiến: hai bên
cố bới xấu nhau nên Li Vưu bị đọc là Si Vưu và bị chê là “ngu đần”, “hay gây
rối” là “quái vật”… Đang khi theo một dòng lưu truyền khác thì Li Vưu lại là
Thiên tử, là lá cờ hướng đạo, là thần đáng đựơc tôn thờ. Hán Cao Tổ khi mới lên
ngôi cũng còn tế Li Vưu. Như vậy chẳng qua là truyện được làm vua thua làm
giặc. Li Vưu thua nên tên bị bôi bẩn thỉu như Mỹ nguỵ ngày nay vậy. Tuy nhiên Việt tộc cũng mở mặt trân
tâm lý chiến đánh vào tim gan giặc xâm lăng, tức là đánh vào cái hồn, cái vật
tổ của Hiên Viên. Chỉ xin kể ra một vụ chính về chim cú. Chim cú được phe Hoàng
Đế thờ và đặt làm thánh quan thầy các thợ luyện kim khí mà Hiên Viên đứng
“đầu”. Xem ra chim cú chính là vật tổ vì được Hoàng Đế ăn thịt theo nghi lễ để
được tham dự phần linh lực của nó. Vậy nhưng Việt tộc tuyên truyền thế nào mà
về sau cú biến ra cú vọ, ra “quỷ điểu” có tiếng là ban đêm hay lần mò đi bắt
trẻ sơ sanh và làm hại các bà mới đẻ. Quỷ điều có 10 đầu nhưng bị chó ăn mất
một nên sợ chó lắm (1). Vì thế để đề phòng chim cú người ta phải kéo tai chó
cho nó kêu, hoặc đập cửa đập giường. Với trẻ sơ sinh thì người ta bôi lên trán
nó vạch đỏ để xua đuổi chim cú (có thể tục xâm trán (điêu đề) phát xuất từ đó)
hoặc bán con cho thần, thánh, tiên, phật để được nhờ sự che chở.
(1) Chó nói ở đây có liên hệ với chó Bàn Hồ là vật tổ của các chi Dao
ở Vân Nam ,
Quý Châu và các chi Mán… Tộc phả của họ ghi rằng: Thời xưa vua Hải Đảo đánh
nhau với vua Lục Địa. Vua Lục Địa treo giải ai giết được vua Hải Đảo thì gả
công chú cho. Chó Bàn Hồ của vua liều đi, bơi tới hải đảo, được vua Hải Đảo đưa
về nuôi, nó lừa dịp cắn chết vua Hải Đảo, tha đầu trở về và vua Lục Địa phải gả
công chúa cho. Chó Bàn Hồ đón công chúa về Dương Châu, sinh được 10 con tức 10
bộ lạc Dao mà con trưởng là họ Bàn. Sau vì bên Tàu mất mùa nên con cháu Bàn Hồ
phải di cư qua Việt Nam .
Vì thế khi ai chết đều làm bè chuối tiễn về Dương Châu, nơi đây có từ đường thờ
công chúa đứng cạnh con chó Bàn Hồ. Do tích này mà các cô gái Dao hay thêu cái
đầu con chó trên cổ áo. Ở Tứ Xuyên giáp giới Vân Nam có một bộ lạc được gọi là người
lai chó. Chắc vì mối liên hệ với họ Bàn. Mà Bàn Hồ nằm trong khối Viêm Việt nên
cũng có liên hệ với Rồng. Con cháu Li Vưu có người gọi là Cẩu Long (chó rồng)
là vì liên hệ ngầm đó.
Lại
còn truyện sợ Phong Long mới ác. Ta đã biết Phong Long là tên của Hiên Viên thế
mà tâm lý chiến của Việt trình bày thế nào khiến các bà mới đẻ rất sợ phong
long. Việt Nam
có câu “sinh dữ tử lành” theo nghĩa các người mới sanh hay mang lại sự không
may cho ngừơi khác gọi là phong long. Vì thế sau khi sinh đầy cữ phải đi đổ
phong long bằng cách mua một vật gì: đồng tiền do sản phụ trả ra có mang theo
phong long, tức những sự không may mắn. Nếu giữa đường ai gặp sản phụ thì gọi
là “chạm phong long”: ngày ấy làm cái gì cũng hỏng, đi thì tất trược, buôn bán
tất ế. Muốn trút độc lại phải đi đổ phong long. Thế là dần dần chim cú trở nên
xấu xa: trong Kinh Thi bài thơ Si Hiêu (số 155 Bân Phong) có câu:
Cú cơi cú hỡi/ Cú đã bắt con ta/ Xin đừng phá nhà ta/ “Si hiêu, si hiêu/ ký thủ ngã tử/ vô diệt ngã thất”.
Việc
có tính cách phá nhà hơn cả là tội bất hiếu, vậy mà cú là chim mang tiếng bất
hiếu: dám ăn thịt mẹ cha. Xưa chửi ai là cú là câu thóa mạ nặng hơn hết. Điều
đó là do ám chỉ văn minh du mục không coi trọng chữ hiếu. Chính vì sự tuyên
truyền bền bỉ như vậy nên đến đời nhà Châu không còn dám coi trọng chim cú nữa.
Nhà vua còn bắt các quan phải ăn cháo chim cú lấy cớ là để tránh tội bất hiếu
bất trung (ông Creel cho là tục này có từ đời Hán). Rồi Tàu nhận vật biểu rồng:
còn bao vật biểu của Tàu trước như hùm, cú, cá… đều lần lượt bị đào thải. Vậy có
nghĩa là kết quả trận chiến kéo dài nhiều ngàn năm với hậu quả là Việt tộc bị
mất đất, mất dân, mất tiếng của nhiều phát minh nhưng xét về văn hóa thì Việt
có thắng: thắng được một nửa nghĩa là Tàu phải nhận rồng, còn thiếu chim tiên
(thiếu nguyên lý mẹ) nên Hán nho kể là khập khiễng: có máu R thiếu máu T. Chỉ
có họ cha thiếu họ mẹ.
Kết
luận là chúng ta có những bằng chứng cụ thể về tiên và rồng. Rồng là giao long,
xà long, Bàn, Quỳ. Còn tiên là các loại chim nước mà dẫn đầu là Hồng Hộc với họ
Hồng Bàng, nên kể là có tiêu điểm vững chắc để đẩy cuộc nghiên cứu xa hơn sang
phần đất Trung Hoa cổ đại; phải nghiên cứu lại toàn bộ cổ sử và tiền sử nước
Tàu từ tiên Tần về trước. Tuy đây là việc rất nặng nhọc nhưng bõ công, vì đó
chính là nghiên cứu về nguồn gốc của một nền văn hóa nông nghiệp thuấn tuý
nhất, ơn ích hơn hết cho con người mà Việt Nam lại có may mắn là kẻ thừa tự có
bằng khoán chói chang là trống đồng Ngọc Lũ với Kinh Hùng, trong hai lâu đài ấy
có đầy ấn tích về tiên (chim) và rồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét