CƠ
CẤU LUẬN
Việt Nam hiện còn thiếu một cử nhân triết
văn (philo-lettres) mà đó là một nhịp cầu giữa triết và văn mà đó là một nhịp
cầu giữa triết và văn sẽ giúp ích rất nhiều cho văn học Việt Nam: nó vừa mở ra
cho triết lý một đất dụng võ rộng hơn hầu mang ơn ích đến cho nhiều tâm hồn
đang bơ vơ không biết đâu là hướng sống… vừa làm cho Việt văn trở nên sâu xa
hơn và giàu thêm khả năng phát huy được những nét đặc trưng của mình. Vì thế
cần phải sửa soạn cho ngành đó. Dầu sao thì cũng là để bù đắp một sự thiếu sót mà
đối với hoàn cảnh nước nhà lại có tính cách quan trọng vì cán cân văn hóa hiện
nghiêng quá nhiều về văn chương mà nhẹ về triết lý. Môn triết văn sẽ giúp vào
việc lập lại thế quân bình. Để góp phần vào việc đó chúng tôi không ngần ngại
gởi đến quý độc giả một ít suy tư và tài liệu sau đây, phần lớn vận hành trong
cõi huyền sử, cơ cấu, truyện tích, truyền kỳ. Sở dĩ chúng tôi chú ý phần cổ văn
này vì chúng giàu đức tính móc nối nhất, hay nói khác đó là thứ văn chương chứa
triết lý hoặc là triết lý nằm sâu trong những câu chuyện văn chương cho nên
chúng quả là lãnh vực phong phú phục vụ cho môn triết văn.
Sách chia ba phần: phần đầu bàn về cơ cấu và những điểm liên quan đến
Việt Nho tuy ít nhưng hy vọng đã giới thiệu được phần nào cái tinh hoa của cơ
cấu.
Phần hai thử rút ra từ cơ cấu và phân tâm một hai quy luật để dùng giải
nghĩa một số truyện tích cũng như suy diễn về cơ cấu của Việt nho. Phần ba chú
ý đến sự đưa triết lý vào Việt văn, coi đó như hướng đi cần thiết cho nền văn
học nước nhà hiện nay.
Chữ viết tắt
AS:
ANTHROPOLOGIE STRUCTURALE. Levi Strauss
CIV: HISTOIRE
DE LA CIVILISATION. W.Durant, Payot xuất bản đề từ I đến XII
RACE: RACE ET
HISTOIRE. Levi Strauss
SIMONIS:
INTRODUCTION AU STRUCTURALISME. Yvan Simonis
T.T: TRISTE
TROPIQUES. Levi Strauss
VĂN HỌC: VIỆT NAM
VĂN HỌC TOÀN THƯ. Hoàng Trọng Miên.
CƠ CẤU
VIỆT NHO
I. TẠI SAO
CƠ CẤU VIỆT NHO
1. Tại sao
không Việt lại Nho?
Thưa vì Nho với Việt
là một. Nói Nho hay Việt, Việt hay Nho cũng thế. Đấy là một lời quyết đoán khó
có thể chấp nhận vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt, và nó
xuất phát tự nước Tàu chứ có phải là của vô thừa nhận đâu để cho ai muốn kéo về
với mình cũng được.
Thế nhưng lại có
thể trả lời rằng: phải, Nho xuất phát tự nước Tàu, nhưng nước Tàu ở thời đại
nào mới được chứ. Có phải là tự đời Hán trở đi hay trước nữa. Và không một học
giả nào dám chối rằng nó đã phát xuất từ thời trước, thời còn khuyết sử, thời
mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Điểm này chúng tôi đã bàn khá dài
trong hai quyển Việt Lý và Triết Lý Cái Đình nên xin thông qua, để được rảnh mà
chú trọng tới việc then chốt là cú pháp của văn Nho, nó khác với văn Việt. Cố
Cadière cho là Việt Nam
nói xuôi (chủ từ động từ túc từ) còn Tàu nói ngược. Vậy tại sao chúng tôi dám
quả quyết Nho là Việt? Thưa vì có một sự kiện rất lớn lao giải nghĩa điều đó,
nó thuộc chính trị và xảy ra ở khắp nơi tức là ngôn ngữ ở nơi nào có kinh đô
nhà vua thì bao giờ cũng thắng thế và dần dần trở nên “quốc ngữ”. Sự kiện ấy
hiện đang xảy ra ở thời đại này bên Trung cộng là thổ âm chung quanh Bác Kinh
đang được trợ lực để lấn át các địa phương khác, như đã xảy đến cho các thổ ngữ
miền Nam của Bách Việt tự lúc Hoàng Đế chiến thắng Si Vưu ở Trác Lộc. Điều đó
nằm trong luật chung là những tiêu chuẩn văn hóa sinh hoạt, nhân chủng, thời
trang tất tất đều lấy nơi kẻ chiến thắng. Vì thế mà khi thiết định Kinh điển
thì tiếng phương Bắc đã được chễm chệ ngồi trên ghế chủ tịch. Đó chẳng qua là
sự may mắn thuộc chính trị gây nên do võ lực chứ chưa đạt nền móng vì thế mà
lưu truyền lại nói: “Trác lộc kinh kim vị nhược hưu: trận ở Trác Lộc chưa có
hưu. Nghĩa là tuy chữ Nho với cú pháp phương Bắc có thắng nhưng còn tất cả tinh
thần văn hóa phương Nam
thì sao? Ta nên biết tinh thần không lệ thuộc cú pháp, hay cả ngôn từ. Muốn
nhận diện “khuôn mặt” của nó thì phải tìm trong toàn bộ cơ sở tinh thần gồm có dụng,
từ, ý, cơ, tức là tự thể chế qua từ ngữ đến tư tưởng và nhất là cơ cấu.
Có xét toàn bộ như thế mới nhận ra được nơi xuất phát của tác giả. Nói khác tác
giả sơ thủy của một nền chủ đạo không nên tìm trong cú pháp, vì đó chỉ là một sự
may rủi thuộc lịch sử, mà phải tìm trong cơ cấu hay là toàn bộ gồm dụng, từ, ý,
cơ. Chúng tôi đã bàn nhiều về dụng (thể chế) ở hai quyển Việt Lý và Cái Đình. Ở
đây sẽ bàn lướt qua từ và ý rồi nhấn mạnh đến cơ hầu minh chứng sự đồng nhất
giữa Nho và Việt.
2. Từ
Ai đã để tâm
nghiên cứu tiếng Việt cũng sẽ nhận ngay ra rằng giữa từ Nho và từ Việt không có
biên cương xác định. Theo sự ước lượng của cụ Ngô Tất Tố thì trong 10.000 từ có
đến 6000 Hán Việt, 3000 gốc Hán, 1000 là Việt thuần túy: theo nghĩa không
mượn của Hán nhưng chung gốc với Mã Lai, Chàm, Indônê. Theo sự ước lượng của cố
Cadière thì đại cương cũng thấy Nho vượt hơn Việt, tức lối 8000 từ nho trong số
13000 từ. Như thế thì đâu là biên cương giữa từ Nho và từ Việt? Nhất là hãy nhớ
đến sự kiện hay bị quên này chữ nho không có một lối đọc chung nhưng mỗi miền
đọc mỗi khác. Sở dĩ người ta quen đồng hóa nho với Hán là vì thói quen chính
trị mà thôi chứ ban đầu Hán chỉ là một lối đọc của một thiểu số trong các lối
đọc khác của Miêu, Mán, Thái, Lạc Việt v.v… nhưng về sau vì may mắn chính trị
mà thiểu số đó lấn lướt nên mặc nhiên được coi như chủ nhân của Nho.
3. Ý
Cũng vì sự lấn
lướt của từ mà Hán tộc đã có thể xuyên tạc ý của Nho khiến người sau không nhận
ra được nữa đâu là đạo lý trung thực của Nho giáo. Điều đó gây nên nhiều lầm
tưởng, thí dụ sự nhận xét rằng văn hóa Việt Nam hơn nho giáo ở chỗ tính chất
dân chủ, ưa chuộng tự do, có sự phóng khoáng trong vấn đề nam nữ, quân bình
giữa cha và mẹ… Nhưng người nghiên cứu sâu rộng về Nho sẽ nhận ngay ra rằng tất
cả bấy nhiêu đức tính đều đã nằm sẵn trong Nho giáo rồi, thí dụ tinh thần dân
chủ đầy trong Kinh thư, nam nữ tự do có ngập trong Kinh Thi, còn tính chất nhân
chính lại là bản cốt của Nho. Tuy nhiên phải công nhận rằng bấy nhiêu đức tính
nằm chen lộn với các yếu tố trái ngược như óc tai dị, chuyên chế, khắc nghị,
đán áp đàn bà, đàn áp dân gian… Tóm lại Nho giáo là một thực thể phức tạp gồm
cả cái hay cái dở, cả tranh đấu cho tự do con người lẫn đàn áp con người v.v…
không thể nhận cả như các cụ xưa, mà cũng không thể chối hết như phần lớn tân
học ngày nay. Vậy chỉ có cách phân ra Việt Nho và Hán Nho là ổn nhất: nó vừa
giải nghĩa được biết bao sự kiện lịch sử như vụ đốt sách chôn nho đời Tần,
xuyên tạc Nho do vụ thư viện Thạch Cừ đời Hán, cũng như giải nghĩa được biết
bao trang huyền sử của Tàu cũng như của ta. Và khi đã phân tích chắt lọc một
cách nghiêm chỉnh như thế rồi thì có thể quả quyết rằng tinh hoa của Nho giáo
chính là của Việt giáo hay nói khác Nho là Việt, Việt là Nho. Và nếu thế thì
vấn đề khẩn thiết lúc này phải là tìm ra phương sách khai quật lên cho kỳ được
đạo lý của Việt Nho. Theo chúng tôi thì phương sách đó sẽ là cơ cấu tức là phần
sâu thẳm nhất của Nho và lúc đó sẽ nhận ra sự thật hiển nhiên này là cơ cấu
Việt văn với cơ cấu Nho giáo là một.
4. Cơ
Nói đến cơ hay là
cơ cấu là nói đến những nguyên lý nền tảng chi phối toàn bộ một nền văn hóa, nó
còn sâu hơn cả ý nên nếu không nắm được thì không thể nhìn ra toàn bộ. Mà thiếu
toàn bộ là thiếu sống động, hãy đưa ra một vài thí dụ cụ thể.
- Trong
bài Bình Ngô Đại Cáo có câu “mấy thuở đợi
chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả”. Hỏi cô xe hư tả là chi.
- Câu
khác: con sông Lục Đẩu sáu khúc nước chảy
một chiều anh ơi. Sông Lục Đầu là gì? Tại sao sáu khúc, tại sao nước chảy
một chiều, tại sao anh ơi mà không em ơi?
-
Tại sao lư rượu được 5 người khiêng 3 người đỡ (truyện Mường)?
- Tại sao 9 cái đỉnh 3 chân 2 tai lại có sức tự nấu
chín đồ ăn mà không cần lửa?
- Tại
sao thuyền làm bằng gỗ cây Cam Xe tự chạy không cần chèo buồm?
- Tại
sao lại có 3 vĩ tích của Lạc Long Quân mà không 4.
- Tại
sao đặt tên là Lang Đa Cần?
- Tại
sao Sách ước?
- Tại
sao Gậy thần?
- Tại
sao lại một lọat chim, chim phụng, chim loan?
- Tại
sao bà Nữ Oa phát minh ra cái sênh?
- Tại
sao kinh đô cổ Việt lại ở xứ Nghệ?
Và một trăm cái
tại sao nữa trong 14 truyện đầu quyển Lĩnh Nam Trích Quái. Xưa nay chưa ai đặt
ra câu hỏi, nên cũng chưa ai tìm ra ý nghĩa, chưa ai giải nghĩa một cách có nền
tảng. Thế rồi tự chống chế rằng đó chỉ là những điển tích biết thì hay không
cũng chẳng sao; hoặc cho rằng đấy chỉ là những truyện cổ tích hoang đường không
cần chú ý tới. Sự thực thì có chú ý tới cũng chẳng giải nghĩa nổi vì không tìm
ra chìa khóa. Bởi chìa khóa giấu ở trong Nho, mà Nho đã bị khinh khi. Vì thế
cái phần quan trọng nhất của Việt văn chính là cổ văn thì lại trở nên buồn tẻ
và ít người chịu nhận dậy, mà có bắt buộc thì cũng lại là giờ tán nhảm còn làm
học trò mất tự tín đối với nền văn học nước nhà là khác.
Cứ thông thường mà
nói thì không hiểu mấy điển chẳng có chi quan trọng, hơn thế nữa viết văn không
nên dùng điển tích vì chỉ làm cho việc hiểu trở nên rắc rối. Nhưng đó là nói về
những điển tích của lịch sử, những truyện tích thuộc cổ điển. Ngược lại không
thể nói vậy nếu những điển đó thuộc thời sơ nguyên là thời hàm chứa những nét
căn bổn hơn hết, nếu không hiểu được thì là nông cạn. Vì thế không nên đồng hóa
những điển tích sơ nguyên với những điển tích về sau, hai đàng khác nhau cả một
trời một vực.
Tóm lại, muốn hiểu
thấu văn học Việt Nam
thì cần phải tìm đến tận cơ cấu. Nếu chỉ chú ý cú pháp thì Nho với Việt khác
nhau, nhưng xét đến đợt Từ và ý thì cả hai đã giống nhau đến quá nửa. Cuối cùng
đến đợt cơ cấu thì cả hai là một nên không hiểu cơ cấu Nho cũng là không hiểu
cơ cấu Việt, mà cơ cấu đã không hiểu thì văn chương chỉ còn là mớ chữ rời rạc
vô hồn.
5. Sự cần
thiết của cơ cấu nói chung
Xem thế thì lẽ ra
cơ cấu phải là một bầu khí dễ thở cho đạo lý Đông phương vì nó gắng công bắt
liên lạc với tiềm thức, mà tiềm thức chính là tiền đường của tâm linh, mà tâm
linh là xương sống của triết Nho. Nói cho cùng thì Việt Nho chính là cơ cấu hay
Việt Nho là một nền triết đi theo lối cơ cấu trước khi cơ cấu được bàn đến cách
hệ thống. Thế nhưng không may trên bước tiến nó đã vấp phải hai ụ cản đường
trước là Hán Nho sau là duy lý Tây Âu.
Hán Nho không đi
lối cơ cấu mà lại đi lối tai dị. Nên tất cả những thuyết cột trụ bị hiểu sai
như tam tài bị bỏ bê trễ, còn ngũ hành lại hiểu theo lối ma thuật vu nghiễn.
Những con số trong cửu trù không được dùng để “công thức hóa” cõi u linh nữa,
mà chỉ còn dùng nuôi dưỡng dị đoan kiểu nam thất nữ cửu trong y học. Vì thế Hán
Nho đã không nhìn ra giá trị cơ cấu trong đó. Rồi tới khi tiếp cận với văn hóa
Tây Âu thì giới tân học lại bước hẳn sang phía duy lý đến nỗi đoạn tuyệt với
bầu khí tâm linh, nhất là nền tư duy một chiều của Pháp, mà cột trụ là câu “tôi
suy tư” của Descartes, một thứ suy tư duy lý hạn hẹp nên cắt đứt mọi tương quan
giữa con người với vũ trụ. Vì thế Levi Strauss đã có lý để gọi Cogito của
Descartes là kẻ thù bí nhiệm chống phá mọi khoa học nhân văn (130 Simonis), nó
bít lối thông sang với vô thức tức là ngãng đường tiến vào đất đứng chung rất
thuận lợi cho sự hiểu nhau giữa loài người. Chính cái lối suy tư làm héo hắt
tâm can đó đã đẩy thêm sự hư hỏng của tâm trí người Việt trong 80 năm qua. Vì
thế nay nói đến cơ cấu của Việt Nho thì cả là một việc rất xa lạ. Nhưng đó là
điều cần thiết.
6. Sứ mạng
hiện tại của văn hóa Việt Nam
Cũng như bao giờ
là phải làm cho nước nhà thêm mạnh. Muốn chu toàn điều đó, văn hóa phải có một
lý tưởng dựa trên một chủ đạo vững chắc. Vì theo sự nhận xét tinh mật của các
nhà triết sử cũng như văn hóa xã hội thì sự yếu hay mạnh của một xã hội là tùy
thuộc vào cái chủ đạo của nó yếu hay mạnh. Như thế chủ đạo mới là nguyên động
lực: nó còn quan trọng hơn cả dân số, vì đa số thụ động không bằng một thiểu số
thống nhất hăng say. Một trong những yếu tố quan trọng giúp cho toàn thể trở
thành thống nhất hăng say là chủ đạo. Chủ đạo càng mạnh thì đoàn thể càng vững,
khi nó suy yếu thì đoàn thể sẽ quy yếu theo đà. Chủ đạo của một dân bị suy yếu
là khi nó bị những yếu tố ngoại lai uy hiếp rồi phân hóa. Nếu không có chi cản
lại thì sự phân hóa đó sẽ đưa xã hội nọ đến chỗ sụp đổ y như đối với cá nhân dễ
lâm vào bệnh thống kinh, một chứng bệnh từng phát xuất nhiều ở những nơi có sự
kình chống của những nhân tố thuộc ý hệ khác nhau. Và như thế sự chữa chạy phải
là giúp cho lý tưởng cố hữu nắm lại được vị trí ưu thắng.
Ai cũng công nhận
rằng văn hóa giáo dục nước ta đang bị uy hiếp nặng nề đến độ phải nói thẳng ra
là nước nhà không còn chủ đạo nữa, hay là đã mất lý tưởng của mình rồi. Và đấy
là mối nguy cơ sâu xa nhất và trầm trọng nhất. Trầm trọng vì không mấy ai nhận
thức ra, hay có nhưng là thiểu số, đã vậy thiểu số còn chia ra nhiều khuynh
hướng, ngay trong việc trở về nguồn; như viết về nếp cũ, viết về văn minh Việt Nam .
Rất nhiều người đi tìm hồn nước trong ca dao rồi cả trong thần thoại truyền kỳ.
Nhưng phải nói rằng đó mới là những sửa soạn bên ngoài. Tất cả phải đi thêm một
bước nữa, nếu không thì chẳng bao giờ làm nên được cái gì vững chắc. Vậy bước
đó phải là cơ cấu của Việt Nho. Có đạt cơ cấu mới tìm ra hệ thống thì văn
chương bình dân mới có chỗ đứng vững, tất cả mới quy hướng vào một điểm làm nên
được toàn bộ có sinh khí và chỉ lúc ấy nền chủ đạo dân tộc mới hiện lên như một
cái gì lẫm liệt uy nghi đủ gây nên lòng sùng mộ, óc hiên ngang, tinh thần say
sưa là những đức tính thiết yếu cho một lý tưởng có đủ khả năng đối diện với
các tư trào ngoại lai. Lúc ấy nó sẽ thâu hóa cái hay của người mà không để tiêu
trầm bản ngã của mình, cũng như sẽ liệu biện được những lời đáp chính xác và có
lý giải cho những đức tính của dân tộc, cho những câu hỏi chẳng hạn tại sao ca
dao ta lại hay, lại có giá trị. Và rất nhiều vấn đề khác sẽ được giải thích ổn
thỏa. Vì giải thích là gì nếu không là đặt nổi mối liên hệ giữa những hiện
tượng khác nhau. Với khoa học vật lý thì đó sẽ là liên hệ từ nguyên nhân đến hệ
quả, còn ở đây là liên hệ giữa những yếu tố lẻ tẻ rời rạc với nguyên lý nền
móng làm thành cái mạch lạc nội tại. Chính sự mạch lạc nội tại sẽ thay thế cho
sự minh hiển khách quan của khoa vật lý. Vậy mà cái mạch lạc nội tại đó lại chỉ
tìm thấy được bên dưới những câu ca dao, bên dưới văn chương hoa mỹ. Bám sát
văn chương bình dân không thể tìm được cái toàn bộ. Mà thiếu cái đó thì không
thể lý giải.
7. Cá nhân
sáng tạo
Đứng ngay về phía
sáng tạo của cá nhân thì có tìm ra cái toàn bộ mới giúp sáng tạo nổi những công
trình văn hóa đặc biệt có sức mãnh liệt lay động ý thức tập thể, nhờ đó mới có
ảnh hưởng lâu bền. Điều đó sẽ nổi bật khi ta nhìn các công trình của các nhà xã
hội hay nhân chủng tiếng tăm lừng lẫy trong thế kỷ trước như một Durkheim, một
Fraser, một Taylor …
Thế nhưng tất cả nay đã bị vượt qua chỉ vì họ còn theo tâm lý cổ điển, bám sát
lý trí mảnh vụn, chưa tìm ra chỗ đứng cho tình cảm mà họ cho là cái gì vô dạng,
bất khả ngôn (informes-ineffable) là vì chưa mở rộng tới miền tiềm thức, vô
thức, nói tóm là chưa nhìn ra được toàn bộ, nên công trình của họ sẽ sụp đổ
theo.
Vì thế đang lúc
văn học cũng như văn hóa nước nhà bị uy hiếp nặng nề thì nghiên cứu cơ cấu Việt
Nho là một trong những lối tốt nhất để khôi phục lại tinh thần đất nước cũng
như cho từng cá nhân. Đứng riêng về cá nhân mà nói thì cơ cấu có thể giúp cho
sự đạt nhân cách. Nhìn cách của một người cao hay thấp là tùy thuộc vào đường
hướng chung của người đó. Thế mà cơ cấu giúp khá nhiều vào việc nhìn ra đường
hướng chung nọ. Thí dụ thuyết Tam tài khi hiểu sâu xa sẽ giúp cho con người có
một nhân cách cao hẳn lên. Đấy là những lý do thôi thúc chúng tôi viết
quyển này.
II. CHUNG
QUANH CƠ CẤU LUẬN
1. Cơ cấu
là gì?
Đó là câu hỏi đầu
tiên mà tất nhiên mọi người đặt ra khi nghe nói đến cơ cấu, nhưng đấy cũng là
câu hỏi chưa có trả lời, ít ra cách dứt khoát.
Trước hết bởi nó
là một ngành mới xuất hiện chưa có xác định, tất cả còn đang hình thành. Sau là
vì có rất nhiều môn đề cập đến cơ cấu nên cũng có rất nhiều quan điểm và do đó
nhiều dạng thức khác nhau. Sau cùng vì có rất nhiều người bàn về cơ cấu với
những chủ trương, đường lối khác nhau (1), nên có bao nhiêu cơ cấu gia là có
bấy nhiêu cơ cấu luận. Vậy khi đề cập đến cơ cấu thì không có vấn đề đúng hay
sai vì chưa có mẫu nhất định, mà chỉ là vấn đề sắc thái dị biệt. Như thế mục
tiêu ở đây không có ý trình bày cơ cấu luận mà chỉ cốt giới thiệu trong ít nét
sơ sài với những người không có giờ đi vào rừng sách vở của cơ cấu, và nhân đó
nói về cái mà tôi gọi là cơ cấu Việt Nho. Điểm cuối cùng này mới là mục tiêu
chính của sách.
(1) Bên Pháp
hay nói đến les quatre grands là Levi Strauss, Althusser, Michel Foucault,
Lancan.
Nói chung thì cơ cấu là một cố gắng vượt qua những cái
dị biệt tạp đa để đạt tới những nét căn bản hơn hết của bất cứ môn học nào. Đã
nói tới căn bản là nói tới tổng quát, mà càng tổng quát thì các nét dị biệt
càng bị xóa nhòa trước ý thức, cuối cùng muốn vượt thực xa thì phải nhảy qua
đợt ý thức là lãnh vực của những dị biệt để vào tiềm thức âm u, nhờ đó sẽ nhìn
ra những luật lớn ít thay đổi. Thí dụ về thời trang: thoạt nhìn ai cũng tưởng là
cái gì tạp đa xô bồ không thể quy vào luật tắc nào cả, mà chỉ vâng theo thị
hiếu bốc đồng mỗi lúc mỗi thay đổi tùy hứng… thế nhưng khi nhìn theo lối cơ cấu
thì lại thấy nó vâng theo quy luật nhất định như nhà xã hội học Kroeber đã
chứng minh (có thể xem A.S.67).
Hoặc lấy một thí
dụ thông thường hơn về môn nhân chủng. Trước kia khoa này chỉ nhằm mô tả các
cách ăn ở, giao liên của một sắc dân được học hỏi, rồi liệt kê những gì có tính
cách đặc trưng và phân loại những nét ấy… cùng lắm là xác định nguồn gốc những
trung tâm truyền bá một loại đồ dùng biểu lộ một sắc thái văn minh nào đó (A.S
388) như giao hình chữ nhật bên Tàu truyền qua Mỹ châu hoặc đồ gốm màu đen Long
Sơn lan rộng đến miền Cam Túc.
Ngược lại khi đi
theo lối cơ cấu thì phải nghĩ tới cái gì uyên nguyên hơn, tế vi hơn, vô hình
hơn do đó có sức bao quát rộng hơn nhiều. Thí dụ mấy sắc dân Caudveo ở mạn Tây
Bắc Canada có rất nhiều yếu tố giống với người Trung Hoa cổ đại như vai trò
quan trọng của phụ nữ, hay là việc chú ý đến sự quân bình giữa các nguyên lý
khác nhau (xem Tristes tropiques 196). Cũng như dân mạn nam nước Tàu lại có
những nét giống lạ với mấy sắc dân bên Mỹ (T.T 267). Cơ cấu chú ý nhiều đến
những mối tương quan ấy…
Do đó các nhà cơ
cấu nuôi hy vọng có thể đem cả hàng trăm loại văn hóa khác nhau xếp vào một số
mẫu chung nào đó. Như vậy cơ cấu là một cố gắng đạt cái gì tổng quát hơn hết
trong mọi ngành như trên tôi đã đồng hóa cơ cấu với tổng hợp. Thế mà tổng hợp
đã có lâu trước nên cơ cấu không hẳn là cái chi mới lạ. Tuy nhiên vẫn có thể
gọi là một khoa học mới ở chỗ được áp dụng một cách triệt để và có hệ thống,
lại bao trùm những địa hạt hết sức lớn lao mà người xưa chưa có đủ phương tiện
thâu lượm được như đời nay. Vì thế cơ cấu sẽ là một lối tổng hợp rốt ráo vượt
không thời gian để áp dụng cho toàn thể con người bất cứ xưa hay nay, văn minh
hay rợ mọi. Và như thế ta thấy ngay nét đặc trưng của nó là tỷ giáo đối chiếu.
Lịch sử theo cơ cấu phải là lịch sử tỉ giáo tức đối chiều nhiều nền văn minh
với nhau. Vì thế muốn bước vào cơ cấu cần phải có kiến thức rộng hợn xưa rất
nhiều. Đó là điều kiện tất nhiên.
Bây giờ chúng ta
hãy xem về mấy nét đặc trưng của cơ cấu luận theo Levi Strauss trong quyển sách
chính của ông là “Dân tộc học cơ cấu”
2. Bốn nét
đặc trưng của cơ cấu
Vậy trong quyển đó
(A.S 40) Levi Strauss có đưa ra 4 điểm sau đây:
- Một
là cơ cấu vượt lý trí để đi sang bình diện tiềm thức: “de conscient à
l’inconscient”.
- Hai
là không học về từng hạn từ nhưng học về liên hệ giữa các hạn từ (non termes
mais relations entre les termes, non
causalité mais corrélation fonctionnelle).
- Ba
là đặt nổi cơ cấu của nó lên để đạt điều.
- Bốn
là tìm ra những luật tắc phổ biến.
Giải rộng
Cơ cấu như vậy
không là tổ chức xã hội, tuy cũng hay gọi thế, nhưng nội dung khác vì tổ chức
xã hội thuộc phạm vi rõ rệt với mục tiêu xác định, tất cả nổi trên mặt ý thức,
dễ nhìn thấy còn cơ cấu là cái gì nằm ngầm bên ngoài sức nhận xét của ý thức nó
thuộc mối liên hệ là cái không hiện hình. Có thể nói cơ cấu là thế quân bình
giữa những yếu tố trái ngược làm nên thực thể xã hội, và biểu lộ ra bằng những
dấu hiệu, những bậc thang giá trị, những ý tưởng của xã hội. Như vậy cơ cấu là
cái gì nằm ngầm bên dưới tổ chức. Có tổ chức tất phải có cơ cấu, nhưng có cơ
cấu chưa hẳn đã có tổ chức. Cơ cấu thuộc tiềm thức tức phạm vi rộng hơn nhiều
nên có sự lặp lại một mô dạng dưới những hình thái khác nhau. Thí dụ truyện lụt
cả đều có ở nhiều nơi với hình dạng dị biệt.
Không học về hạn
từ nhưng học về liên hệ. Nói như Simomis (167) cho tới nay chúng ta mới học có
văn hóa bản thể: culture-substances; tự nay mới học về văn hóa liên hệ giữa các
biểu tượng (relation entre les symboles). Nếu học theo lối bản thể (hay hạn từ)
thì sẽ nghiên cứu xem thí dụ nước Tàu đóng góp được những gì (thuốc súng, bàn
la kinh hay chép in rời) Phénicie đóng góp phần abc, Ấn Độ con số zéro v.v… Tức
là những gì đặt trờ ra đó, ai cũng có thể nhìn ra… Và cứ như thế mà lên sổ các
yếu tố của một nền văn minh kể từ tôn giáo, chính trị, văn chương, thể chế thói
tục cho tới ngôn ngữ chữ viết, đồ dùng… Cơ cấu không chú trọng đến từng hạn từ
lẻ tẻ như vậy, nhưng xem một nền văn minh chú trọng đến điểm nào, bỏ lơ điểm
nào, và sắp xếp các hạn từ đó với nhau ra sao để tìm ra phẩm tính của mối liên
hệ. Thí dụ khi gọi cha mẹ là nghiêm
đường hay song thân thì với lối
xưa không bao hàm chi cả, nhưng theo lối cơ cấu ta sẽ chú ý đến phẩm chất của
mối tương quan biểu lộ ra trong hai chữ nghiêm đường và song thân. Khi nói song
thân là nói lên tình thân mật giữa cha con, như vậy là di sản của mẫu hệ: quyền
cai trị nằm trong tay cậu (về đàng mẹ) nên tương quan cậu cháu là nghiêm khắc
(đại biểu cho du mục) còn tương quan cha con là thân mật. Ngược lại trong phụ
hệ thì quyền cai trị nằm trong tay cha, nên tương quan cha con là nghiêm khắc.
Một thí dụ khác về cách nấu ăn, cơ cấu không chú ý ăn cái gì cho bằng ăn kiểu nào:
ăn sống hay ăn nướng (le cru et le cuit). Vì những cách đó có tương quan khác
nhau. Ăn sống không văn minh bằng ăn chín. Ăn chín như nướng, rán liên hệ với
đàn ông, ăn chín luộc sào liên hệ với đàn bà. Nấu giữ được cả nước nên thông
dụng ở những dân nghèo, nướng làm mất nước biểu lộ hoang phí nên được dùng
nhiều hơn ở nơi quyền quý v.v…
Đó là vài thí dụ
nói lên sự tế vi của cơ cấu: nó không chú ý đến hạn từ cụ thể hiện hình ra
nhưng chú ý đến mối tương quan, cách bố cục các hạn từ các chức năng của chúng
là cái chi vô hình trừu tượng, và đó mới là điều làm nên nét đặc trưng của một
nền văn minh: mỗi văn minh bỏ nhẹ một số yếu tố để có thể đặt nổi một số yếu tố
khác, văn minh La Hy chú trọng ngữ luật, văn minh Việt Nho chú trọng thi ca
v.v… những sự chú trọng đó có thể phân ra ba điểm then chốt như chúng tôi đã
nói về ba khởi điểm thiên, địa, nhân (xem đầu quyển Nhân Bản). Đọc kỹ sẽ nhận
ra sự quan trọng nằm trong mối liên hệ, nói cụ thể là sự sắp xếp. Chính sự xếp
đặt làm nên mối liên hệ và chính mối liên hệ mới nói lên nét đặc trưng sâu xa của
một nền văn hóa. Nét đặc trưng này sẽ rất khó tìm ra khi học theo lối xưa (từng
hạn từ lẻ tẻ). Bởi vì nền văn hóa nào cũng xuýt xoát có bấy nhiêu yếu tố: ngôn
ngữ, kỹ thuật, khoa học, tín ngưỡng, tổ chức xã hội, kinh tế v.v… nhưng nếu xem
vào liều lượng và vị trí của mỗi yếu tố: đặt nặng cái này bỏ nhẹ cái kia… thì
sẽ nhận ra nét đặc trưng. Thí dụ trong nền giáo dục Việt Nho coi trọng chữ tình
ngược với La Hy coi trọng chữ lý. Từ những sự lựa chọn và đặt nỗi đó cơ cấu
luận có thể đi tìm lý do thầm kín của những sự lựa chọn này, rồi từ đó phân ra
vài loại lớn như chúng tôi đã làm khi phân ra hai loại nguồn gốc văn minh là du
mục và nông nghiệp. Như thế ta thấy cái học theo cơ cấu tế vi hơn trước nhiều.
Nhờ sự tế vi đó
nên có thể đi vào sâu, và nhờ đi sâu nên có thể đẩy xa hơn việc dùng công thức
toán kiểu đại số vào những cái tế vi khiến cho sự suy diễn trở nên xát thiết
hơn, rõ ràng hơn. Thí dụ thay vì con số 3 thì cơ cấu có thể biến ra 2+1, hoặc
như chúng tôi quen làm theo ngũ hành với con số 5 thì có thể chia ra 3+2 hoặc
là 4+1 dùng để đúc kế những nét đặc trưng của một nền văn hóa; cũng có thể đưa
ra những ký hiệu khác như Levi Strauss đã dùng để phân ra 4 lọai giao liên như:
Giao liên có tính
chất tương liên (mutualité)
Giao liên đảo lại
(réciprocité)
Giao liên xây trên
quyền lợi (droit)
Giao liên chú ý
đến nhiệm vụ (obligation) (A.S 60).
Theo đó ta có thể
nói xã hội La Hi đi theo liên hệ hàng ngang chủ nô là + - - chủ có mọi quyền,
nô có mọi nghĩa vụ thiếu sự Tương liên đảo ngược phần nào có thể nói như thế về
Hán nho là quân thần… còn xã hội Việt Nho đi theo lối hàng dọc như ngũ luân hay
song thân có đi có lại. Rồi từ đó đi đến những nhận định tổng quát hơn như lối
thân tộc hóa xã hội của ta: gặp người xa lạ ta vẫn dùng những lối xưng hô thân
mật trong gia đình: thưa ông, thưa bà, thưa cô, dì, chú, bác, anh, em, chị…
ngược với lối vô ngã hóa của Tây khi với bất cứ ai trên hay dưới, thân hay sơ
cũng chỉ xưng hô bằng một kiểu duy nhất vô sắc thái là you, vous, il. Như thế
muốn đi vào cơ cấu không cần tài liệu mới hay dữ kiện mới cho bằng thay đổi hẳn
lối nhìn: lối nhìn này phần lớn hệ tại biết đứng ở toàn cảnh nhìn vào từng phần
và tìm giải nghĩa từng phần bằng đặt chúng vào tương quan với toàn bộ. Chính
mối tương quan vô hình định tính các loại văn hóa.
Điểm cuối cùng là
nhằm tìm ra luật chung bằng cách quy nạp hay suy diễn từ những mẫu mực tự mình
kiến tạo ra hầu giúp đem lại cho sự vật quan sát (I xã hội) tính chất xác
định kiểu luật tắc. Như vậy không cần tìm biết xem những mẫu mực kia có thực y
như vậy chăng, nhưng là tìm cách phác họa ra được những mẫu mực gần với thực
tại để dùng làm tiêu điểm trong việc so đo, xếp loại. Nói khác mẫu mực kiến tạo
(modèle construit) là một ý niệm khí dụng chứ không là ý niệm hữu thể (Race
108) không cần biết mẫu mực đưa ra có thực cho bằng biết đó chỉ là dụng cụ giúp
nhìn tỏ hơn. Thí dụ khi tôi đưa ra hai dạng thức du mục và nông nghiệp thì không
có ý bảo rằng xã hội Việt Nho là hoàn toàn nông nghiệp, còn xã hội La Hy hoàn
toàn du mục, nhưng đó là những tiêu điểm giúp cho dễ phân ra những yếu tố nào
là nông nghiệp hay du mục, thời nào thì du mục nổi hơn v.v… (sẽ bàn thêm về mẫu
kiến tạo này).
Đó là vài ý niệm
khái quát về cơ cấu. Bây giờ chúng ta đi thêm một bước nữa bằng xem đến vai trò
ngữ học trong cơ cấu.
3. Vai trò
ngữ học
Ngữ học được đưa
ra làm thí dụ đặc biệt vì đây là thực thể riêng biệt nhất của con người cũng
như là ngã ba mà mọi ngành học phải đi qua. Ngoài ra có một điểm may mắn là ngữ
học đã trở thành khoa học xác thiết đến độ có thể dùng làm mẫu cho các khoa
khác và được sự đồng ý của nhiều người nghiên cứu hơn hết, hơn cả khoa kinh tế
chẳng hạn vì những kế hoạch kinh tế đã thành công ở nơi này không hẳn dùng được
cho nơi khác. Ngược lại ngữ học có thể dùng cho mọi ngôn ngữ. Thế mà ai cũng
phải công nhận rằng ngôn ngữ là di sản tối quan trọng làm nên một dân tộc, một
tổ quốc và được mọi người mặc nhiên chấp nhận không cần lý luận. Nhưng cho tới
nay không ai ngờ tới điều đó, cứ tưởng rằng tiếng nói nằm trong quyền lực mình,
mình có thể nhận hay không là tùy ý. Nhưng đó là một lầm tưởng vì nó nằm ngoài
quyền lực cá nhân, bên ngoài lý trí ý thức tức là nó nằm hầu hết trong miền
tiềm thức và được biểu lộ ra ngoài toàn bằng những ước định. Thí dụ cái nhà có
thể kêu là ốc là thất là house chẳng hạn có lý nào bắt phải gọi như thế cả: gọi
nhà chỉ là một ước định công cộng. Vì là ước định ngoại lý nên không thuộc phạm
vi ý thức (của lý trí) mà thuộc phạm vi nằm ngầm của tiềm thức. Đó là điều
trước kia không được nhận thức nên khoa ngữ học dừng lại ở đợt ý thức hàng
ngang như học về từ ngữ riêng lẻ, tìm giải lý bằng lịch sử v.v… còn cơ cấu sẽ
chú ý đến tương quan giữa nghĩa và hình (signifíe et signifiant) chú ý về nghĩa
vị học (sémantique) hoặc là về âm vị học… toàn là những cái nằm ngoài ý thức,
nên Levi Strauss kêu là cuộc cách mạng âm vị học (révolution phonologique). Ông
Troubetzkoi chia phương pháp âm vị học ra 4 giai đoạn:
- Âm vị từ bỏ sự nghiên
cứu hiện tượng ngôn ngữ có thể ý thức được, để khảo sát hạ tầng tiềm thức của
những hiện tượng ấy.
- Đối tượng âm vị học không phải là những đơn
vị riêng lẻ mà là những mối liên hệ giữa những đơn vị ấy.
- Âm vị học đi xa hơn nữa bằng phát hiện những
hệ thống âm vị cụ thể và cơ cấu của chúng.
- Sau cùng âm vị học cố tìm ra những định luật
tổng quát bằng quy nạp hay diễn dịch.
Sau này nhà ngữ
học trứ danh Ferdinand de Saussure nhận ra một chiều kích khác gọi được là hàng
dọc thì tự đấy nảy sinh ra cơ cấu trong ngữ lý học (linguistique). Gọi là ngữ
lý học vì nó tìm ra những tương quan hoặc thuộc tâm lý hoặc thuộc xã học hay cả
lý luận giữa những từ đi đôi, làm nên một hệ thống. Nó cố gắng lặn sâu xuống
tiềm thức để đạt độ cơ cấu nằm bên ngoài quyền lực cá nhân. Chính vì thể mà
nhiều nhà cơ cấu chối bỏ vai trò cá nhân. Với họ cá nhân chỉ còn như một bộ
phân một khí cụ của một cơ cấu lớn lao điều động. Câu thơ của Alain Bosquet nói
theo ý đó rằng:
Pour être, moi
j’écris
C’est aux mots de
comprendre.
Muốn có tôi phải
viết (tôi có là do chữ viết ra, thiếu nó tôi hầu không có) chính chữ viết nó
hiểu (chứ không phải tôi hiểu). Tôi chỉ là dụng cụ mà cơ cấu chữ nghĩa dùng
từng lúc.
Đó là vài ý niệm
rất sơ sài về ngữ lý học. Bây giờ chúng ta xem về sử để thấy sự khác biệt giữa
lịch sử khoa học và lịch sử theo cơ cấu, cũng gọi là sử hàng dọc.
4. Sử hàng
dọc
Khác với sử hàng
ngang hay sử khoa học mà tôi quen gọi là duy sử. Duy sử xuất hiện dưới quyền
lực của duy lý chú ý đến những biến cố (événementielle) nghĩa là những sự kiện
có thực đã xảy ra nên có thể ghi ngày tháng và địa điểm với những nhân vật có
thực. Nhưng với cơ cấu thì lại nảy ra một loại sử gọi là hàng dọc (histoire
synchronique) vận hành với tiềm thức, không cần thể hiện vào một cá thể vì vậy
không thể ghi thời điểm và không điểm, nhưng vẫn gọi được là sử vì có thật tuy
không thực (vraie mais irréelle). Nói theo “Chữ Thời” là “hữu thực (vraie) nhi
hồ xứ giả” (irréelle). Áp dụng vào sử thì “hữu thực” là có những tác động, hay
nguyên lý chỉ dẫn hoặc lý tưởng được cưu mang… nhưng “vô hồ xứ giả” nghĩa là
không cần kết tinh vào cá nhân này hay cá nhân kia. Nhờ đó nó có thể là sơ
nguyên tượng hay điển loại tức là một dạng thức phổ biến, còn nằm trong cõi
thiên thai (mong muốn) nhưng chưa gặp bước trần ai nghĩa là chưa hẳn có ai hiện
thực được như vậy. Nói thế có nghĩa là trong thực tế không cần có những người
mang tên là Đế Minh, nhưng có nguyên lý hướng về ánh sáng (tuần thú phương Nam)
có những tác động tháo lui trước quân xâm lăng, rồi lấy vợ ở miền Nam, và gọi
đó là gặp Vụ Tiên trên núi Ngũ Lĩnh tức là trong miền đất có nền văn hóa đi
theo thuyết ngũ hành. Nói tóm có tác động điển hình mà không cần phải có người
nào cả. Đó gọi là huyền sử. Huyền sử không nhằm đem tin hay kể lại sự kiện
(apprendre) nhưng nhằm nói lên ý nghĩa sâu xa (expliquer). Vì thế cơ cấu nói sử
hàng ngang đem tin hay cho biết biến cố nhiều hơn là giải nghĩa còn sử hàng dọc
giải nghĩa nhiều hơn đem tin. Histoire synchronique explique plus et apprend
moins (142 Simomis). Muốn nghe truyện thì dõi theo sử hàng ngang của các sự
kiện. Nhưng muốn hiểu truyện thật sâu thì phải theo sử hàng dọc đâm thẳng
xuống, có vậy mới khám phá ra những yếu tố nằm ngầm. Thí dụ giá gạo tăng vọt
tại đâu, lối hàng dọc sẽ không tìm ra giá gạo các năm trước nhưng tìm ở sự tác
động hỗ tương giũa các ảnh hưởng kinh tế xã hội ở hiện tại. Trái lại sử hàng
ngang chú ý đến dĩ vãng, nhìn về trước nên duy sử có họ với phái duy vãng (xem
Chữ Thời). Ngược lại cơ cấu chú ý đến hiện tại nhưng không phải duy hiện tại vì
đây là thứ hiện tại được đào sâu để tìm ra cơ cấu đặng khám phá ra cái định
luật cấu tạo ra cơ cấu. Vì thế Michel Foucault gọi cơ cấu là khoa khai quật cổ
vật (archéologie).
Như thế thì sử học
có tính cách đứt đoạn: nghiên cứu về những nhân vật, về những biến cố không bao
giờ sẽ thấy được lần thứ hai, với thời gian bất khả phục hồi. Còn sử hàng dọc
thì lại cố tìm ra những hình thức tiềm ẩn dưới những định chế của loài người;
tiềm ẩn là thoát khỏi ý thức của tác nhân, nhưng lại chi phối tác nhân. Thí dụ
những xã hội không chịu giải phóng nô lệ thì lại hướng nhiều về nuôi dưỡng
những tin tưởng về thiên thai, âm phủ… để xoa dịu những nạn nhân của chế độ. Vì
thế nếu biết đọc sử theo lối hàng dọc sẽ có thể xâu tất cả dòng lịch sử lại một
gọi là sử mệnh hay sử hàng dọc nói về những sơ nguyên tượng sẵn sàng phục
hồi. Ngược với sử hàng ngang ghi lại những biến cố cá biệt với những nhân vật
có thực, nên bất khả phục hồi.
Trở lên là mấy nét
lớn để nhận diện sơ sài cơ cấu. Nói tổng quát thì cơ cấu là một bước cố gắng
tổng hợp được đẩy xa hơn trước trong mọi khoa học nhân văn. Với cơ cấu chúng ta
sẽ đi vào sâu hơn, mà sâu hơn cũng có nghĩa là đơn giản hơn, tế vi hơn, và từ
đó may ra có thể nhận ra mối tương quan nền tảng (di luân du tự) kết hợp tất cả
lại thành một toàn bộ đem lại cho các yếu tố rời rạc lẻ tẻ trước kia một sức
sống động. Cơ cấu như vậy có thể sẽ giúp chúng ta quét sạch được rất nhiều ý
niệm của triết học bản thể (cổ điển) tất cả đều nằm trong tình trạng vì thiếu
mất chữ tương. Nếu hiện thực được như thế thì cơ cấu có thể mở ra một giai đoạn
mới cho loài người trong việc tìm hiểu nhau hơn. Chương sau chúng ta sẽ tìm
hiểu thêm bằng chú ý đến Levi Strauss.
III. CƠ
CẤU CỦA LEVI STRAUSS
1.
Bản tính đồng nhiên con người
Levi Strauss được
chọn để học riêng vì ông có tính cách tổng quát nhất. Ông đã nghiên cứu rất tỉ
mỉ về thần thoại của nhiều dân tộc, nhờ đó bên ngoài những cái dị biệt ông tìm
ra được những nét giống nhau giữa các thần thoại, tất cả như được múc lấy tự
một nguồn vô tận mà Jung kêu là tiềm thức cộng thông. Căn cứ vào đó ông đi đến
kết luận là có một bản tính đồng nhiên cho mọi con người không phân biệt màu
da, dòng máu… và do đó đi đến kết luận là có những luật bất biến chi phối mọi
hoạt động con người, cổ cũng như kim, đông cũng như tây, nhưng đều nằm dưới
vùng vô thức. Chính tác động vô thức đưa ra những dạng thức bắt buộc mọi người
phải tuân theo. Vì thế chỉ cần tìm ra được cái cơ cấu vô thức nằm ngầm trong
mỗi định chế, thói tục, thần thoại… là tìm ra nguyên lý giải nghĩa được tất cả
mọi thể chế, thói tục, thần thoại khác… Muốn tìm ra thì cần đẩy phân tích thật
sâu xa đến trung độ (A.S 28) bởi cái lý trí bất biến của bản tính con người là
một hệ thống những niệm thức nằm chen kẽ giữa hạ tầng và thượng tầng kiến trúc.
Nhờ vị trí trung gian đó chúng trở nên lưỡng diện vừa có tính cách thường
nghiệm mà lại khả tri (empirique et intelligible). Với thường nghiệm là biến
đổi, còn khả tri thì bất biến theo nghĩa là chúng vâng theo một số mẫu mực trở
đi trở lại, vì chúng phát xuất từ một lý trí luôn luôn đồng nhất với mình. Bởi
thế mà nó vượt trên quan điểm xã hội hay biến đổi. Đó là những cơ cấu thường
trực của tâm thức con người không hay biến đổi nhưng lại chi phối mọi hình thái
lộ diễn ra bên ngoài đầy phức tạp. Hễ nắm được những luật thường trực đó thì
như vượt được những lớp phủ ngoài để đạt đến những nguyên nhân sâu xa nhất tiềm
ẩn nhất để có thể giải nghĩa mọi phong tục kỳ lạ, tức là tìm ra được cái sâu xa
để giải nghĩa những cái nông cạn. Nắm được những luật sâu xa đó rồi thì cả đến
lịch sử bao gồm mọi biến cố phức tạp tuy vẫn bất khả tiên liệu, nhưng không còn
tính chất tình cờ ngẫu nhĩ (arbitraire) mà có thể giải nghĩa bằng sử hàng dọc.
Điều quan trọng là tìm ra được những cơ cấu đó. Chúng không có nhiều, tuy nhiên
rất khỏ tìm ra vì chúng bị chôn vùi dưới những phạm trù lý trí, những dạng thức
do trí óc con người bày ra, hoặc những tổ chức đủ thứ trong xã hội. Làm thế nào
để tìm ra những luật cơ bản đó, đấy là việc của cơ cấu.
2. Kiến
tạo dạng thức
Levi Strauss đề
nghị một phương thức là kiến tạo ra những dạng thức để làm dụng cụ quan sát và
xếp lọai những dữ kiện thâu lượm được trong vùng tiềm thức, vì tiềm thức là
miền âm u mờ mịt như biển đại dương không thể y cứ vào cái gì để làm tiêu điểm.
Bởi vậy mà phải kiến tạo ra dạng thức. Đại để như hình sau:
D
C
Trục ngang Th chỉ
Thực thể hiện hình, các mũi tên hướng lên điểm D là dạng thức, còn trục D đến C
là sự phản chiếu của cơ cấu (phỏng theo hình mượn của Simonis p.171). Xem hình
trên sẽ nhận ra rằng những dạng thức không phải là hình ảnh sao lại y nguyên
thực tại, vì thực tại mờ mịt phi hình, vậy dạng thức chỉ là những khí dụng có
mạch lạc nên khả niệm vì do lý trí tạo ra để “chụp” lên trên thực tại mơ hồ
đặng có thể phân chia. Chẳng khác gì trái đất có hình tròn không lấy gì làm tiêu
điểm, nhà khoa học tự đặt ra các hệ thống kinh tuyến vĩ tuyến rồi chụp lên quả
địa cầu đặng có thể phân chi độ số. Cũng vậy nhà cơ cấu đặt ra những dạng thức
không cần mấy xác thực là cốt để nắm được thực tại. Như thế những dạng thức đó
không có phần cụ thể (phần sensible) nhưng lại tạo ra được phần khả niệm
(intelligible. Simonis 316). Nói khác dạng thức làm cho ta lùi xa thực tại (vì
đánh mất sensible) là cốt để nắm vững hơn được thực tại (bằng intelligible)
kiểu như khoa học vật lý cũng cắt xén sự vật bằng những phương pháp trừu tượng
hầu chế ngự thực tại. Cũng thế những mô hình kiến tạo có thể giúp ta khám phá
những hệ thống hữu lý tiềm ẩn dưới bộ mặt phức tạp mơ hồ của thực tại. Là vì
nhờ đó ta có thể chọn lọc trong thực tại đa tạp mơ hồ một số chủ đề nào đó đặng
đề cao, phóng đại, giúp thực tại được diễn ra trong mốc giới, bớt được sự mung
lung. Vì vậy không nên chê những dạng thức kiến tạo (modeles construits) là giả
thiết, không tưởng vì đó chỉ là những phương tiện bày ra giúp cho đi đến một
mục tiêu khác như để có lý tưởng (dù chỉ là giả định) đặng mà đối chiếu thực
tại. Trong lịch sử khoa học đã có nhiều gương như thế chẳng hạn toán học dùng
đồ biểu để giản lược thực tại cho dễ quan sát. Hoặc là những điển loại (types)
của Weber cũng có tính cách giả định vì chỉ cốt dùng làm tiêu điểm đặng kiểm kê
thực tại nhân văn. Thực tại vốn hàm hồ, vậy cần thiết lập ra một hệ thống đo
lường các giá trị đó gọi là điển loại. Điển loại có ích cho việc học hỏi bớt đi
tính chất mung lung. Trong triết học ta cũng có thể kể đến những phạm trù của
Kant. Đó cũng là những tương quan tất yếu được lý trí suy diễn ra dùng để liên
kết và thâu dồn vạn vật đa tạp vào với nhau. Ở giữa phạm trù lý trí phân minh
và sự vật hỗn tạp Kant đặt ra một thứ trung gian vừa có tính chất cảm giác cụ
thể để sắp xếp sự vật, lại thêm tính chất lý luận trừu tượng để sắp xếp các sự
vật, đó là niệm thức (schématisme) một sản phẩm của trí tưởng tượng tiên
nghiệm. Cơ cấu phần nào giống với niệm thức, còn dạng thức giống với phạm trù.
Như vậy dạng thức được kiến tạo có lý do tồn tại của nó, nên đã xuất hiện nhiều
lần, nhưng với Levi Strauss thì được thi hành cách triệt để và hệ thống.
Thế là đã tạm bàn
xong phương pháp. Bây giờ đến chuyện dùng phương pháp. Và câu hỏi trước nhất sẽ
là áp dụng vào điểm nào? Thưa đó sẽ là những điểm nối.
3.
Điểm nối
Đây là điều tối
quan trọng nhưng không được chú ý đủ trong các khoa học xưa vì tất cả chỉ chú ý
có một bên: triết thì chú ý lý trí, sử thì duy kiện, ngôn ngữ thì ngữ luật… Hầu
không khoa nào chú trọng đến điểm nối ý thức với tiềm thức, nối cảm xúc với khả
niệm, nối văn hóa với thiên nhiên và vì vậy tất cả bị lên án là một chiều hay
là độc khối: đánh mất chữ Tương. Levi Strauss đã muốn bù đắp chỗ đó bằng nghiên
cứu về những điểm nối đã hiện hình, thí dụ việc nam nữ kết hôn là một, trao đổi
hóa vật là hai và trao đổi văn hóa là ba.
Trong việc hôn
nhân cũng gọi là trao đổi đàn bà Levi Strauss chú ý nhiều nhất đến tục lệ cấm
loạn luân. Đó là điều có tính cách phổ quát vì không đâu không có, mà lại do
con người (nhân vi hay văn hóa) nhưng đặt trên một điều thiên nhiên là sự nam
nữ giao hợp. Nam
nữ giao hợp là luật thiên nhiên phổ quát, không đâu không có, nó còn quan trọng
hơn việc ăn uống vì thuộc cá nhân: ăn để cho cá nhân sống, còn nam nữ giao hợp
là để cho chủng lọai trường tồn nên có tính cách nền tảng hơn, sâu xa hơn việc
ăn. Và xem ra thiên nhiên không có đặt một sự hạn chế nào cả. Cha nằm với con
gái như các vua Pharaon quen làm thì con cái sinh ra cũng không thấy yếu ớt như
một số nhà luân lý nghĩ tưởng. Vậy mà phải công nhận một điều là khắp nơi trên
thế giới đâu đâu cũng có sự cấm loạn luân, thì rõ rệt đó là một sự can thiệp
của con người vào thiên nhiên và chính sự can thiệp đó làm nền tảng cho văn
hóa. Con vật thiếu văn hóa vì không biết can thiệp vào thiên nhiên, không biết
“sang ngang” tức bước tự thiên nhiên tới nhân vị. Trong sự sang ngang đó Levi
Strauss coi việc cấm loạn luân là rõ nhất, ông viết: l’inceste est le passage
de la nature à la culture (Simonis 38). Vì thế Yvan Simonis đã gọi cơ cấu của Levi
Strauss là sự đam mê loạn luân: coi loạn luân như cửa dẫn vào cơ cấu luận của
Levi Strauss (Levi Strauss ou la passion de l’inceste, introduction au
structuralisme). Nói khác con người chỉ bước lên đợt đầu của văn hóa và từ lúc
có luật lệ cấm loạn luân, vì đó là bước đầu có tổ chức thay vào cho sự tình cờ
gặp đâu hay đấy. Từ lúc cấm loạn luân thì người ta mở rộng giao liên đến cha
nhường mẹ, chị cho gia đình khác, thị tộc khác; và do đó mở rộng phạm vi trao
đổi. Trao đổi đàn bà được chú trọng vì nó là bản gốc của thân tộc, tức là lối
xếp loại con người theo dòng máu, theo mức độ thân hay sơ. Như thế sự cấm loạn
luân là cột trụ của thân tộc, mà thân tộc cũng là một trụ cột khác trong công
trình của Levi Strauss. Thân tộc cũng vừa là cái gì thiên nhiên vừa là văn hóa
(nhân vị tự ngoài chụp vào) nên có rất nhiều mối liên hệ họ hàng khác nhau do
sự can thiệp khác nhau của mỗi nơi mỗi thời. Có thể nói như thế về các kiểu
kiến trúc, sắp đặt nhà cửa trong một thôn ấp ở nhiều sắc dân cổ sơ. Tất cả đều
hàm tàng những mối tương quan giàu tình chất cơ cấu tức là trong việc ăn mặc
cũng như cư trú vừa là thiên nhiên vừa lại do con người tạo tác thì có nhiều
lối xếp lọai khác nhau làm nên những sắc thái văn minh khác nhau, mỗi cái có
giá trị riêng của nó khi đặt đúng vào toàn bộ của nó.
4. Giá trị
của những cái khởi đầu
Chính vì thế mà
Levi Strauss đứng vào phe chống lại thuyết tiến hóa về văn minh, vì là thuyết
mưu toan xóa bỏ các nền văn hóa khác để chỉ lấy Âu Châu làm điểm tối hậu, làm
tiêu chuẩn duy nhất, và như vậy thì các dân khác phải từ bỏ tiêu chuẩn của mình
để theo tiêu chuẩn của Tây Aâu. Có thế mới gọi là tiến bộ văn minh. Vì theo chủ
trương tiến hóa thì những sự khác biệt là giả tạo mà không còn là tố chất của
các nền văn hóa. Thế mà sự tiến hóa xưa nay không luôn luôn đi theo một chiều
hướng nhất định và càng ngày càng xa hơn theo chiều hướng ấy, trái lại chiều
hướng có thể thay đổi bất ngờ, ngẫu biến gần như một con cờ tướng có sẵn nhiều
lối đi nhưng không bao giờ theo một chiếu hướng duy nhất. Tây phương có tiến xa
hơn trong kỹ thuật nhưng trong các ngành khác như tôn giáo mỹ thuật lại kém
v.v… Chứng cớ là nhiều dân cổ sơ biết tổ chức đời sống đem lại hạnh phúc cho
nhiều người hơn bên Tây Aâu. Có thể nói họ “người” hơn những dân Tây Aâu văn
minh. Vì thế ông phản đối thuyết biến hóa (được hầu hết người Pháp theo, trừ
hai ông Balandier và Roger Bastide chuyên nghiên cứu về đề tài văn hóa Tây Âu
ăn hiếp các văn hóa bổn quốc Phi Châu. Còn Roger Bastide khảo về sự va chạm các
tôn giáo ở Ba Tây). Tất cả những người đó giống với óc đế quốc của Cộng sản: cố
công đem học thuyết Tây Âu trùm lên con người khắp nơi, mà không kể chi tới
những sắc thái dị biệt. Vì thế một nhà nhân chủng học nổi tiếng ở Anh ông
Radcliffe Brown đã gọi quan niệm tiến hóa trên kia là ngụy sử.
Còn ông Malinowski
đưa ra thuyết chức năng (fonctionnalisme) để chống lại. Ông cho thuyết tiến hóa
quá trừu tượng vì xem xã hội sơ khai như lệ thuộc vào lịch sử Tây phương. Đó là
lối nhìn cũ kỹ cắm mắt vào những yếu tố lẻ tẻ vụn mảnh mà không chú ý đến toàn
bộ làm thành bởi những yếu tố ấy. Vậy cần lập ra Chức năng thuyết để nghiên cứu
về tác hành của xã hội. Cái đó nằm ngay trong hiện tại của nó, vì xã hội ấy chỉ
có thể tồn tại và điều hành được là nhờ những yếu tố hiện tại có trong xã hội
chứ không phải những yếu tố đã khuất dạng trong quá khứ. Và vì thề mà quan niệm
chức năng đi đến chỗ phủ nhận lịch sử nghĩa là phủ nhận biến động. Đó là một
điều quá đáng khác mà Levi Strauss đã muốn tránh. Vì thế tuy ông rất chú ý đến
cơ cấu đồng thời nhưng cũng công nhận rằng nhờ có sự biến chuyển hiện đang xảy
ra trong các xã hội cổ sơ mà ta mới có thể khám phá ra những cơ cấu nằm ngầm
trong các xã hội ấy. Những cơ cấu ấy thường hình thành ngay từ những bước sơ
khai của mỗi dân tộc, vì thế Levi Strauss đề cao giá trị của những cái khởi đầu
coi đó như những gạch nối giữa hai nền sử hàng ngang và hàng dọc: là vì lúc đó
tiềm thức còn tác động mạnh hơn các đời về sau. Ông cho rằng trong bất cứ
phương diện nào chỉ có những bước đầu mới là lớn lao, những sáng tạo ban đầu
mới là vĩ đại. Trong Tristes topiques (p. 422) ông có viết rằng “trong phạm vi
nào bất cứ con người chỉ sáng tạo được những cái cao cả trong lúc đầu: chỉ có
bước khởi sự mới lớn lao toàn triệt! L’homme ne crée vraiment grand qu’au début
dans quelque domaine que ce soit, seule la première dèmarche soit intégralement
grandes. Vì thế ông coi những truyện thần thoại như những cơ cấu nổi lờ phờ
trên mặt ý thức, nên dễ khai quật, để giúp tìm ra được những dạng thức căn cơ
cho một xã hội. Muốn tìm hiểu một xã hội mà lại bỏ bê những trang đầu lịch sử
là chỉ biết có sử hàng ngang, đó là sa đọa, không thể đạt được cấu thứ của các
định chế (Race 120). Quyển “La Pensée Sauvage” của ông có thể coi như tiếng
chuông sầu chôn táng sự sai lầm của Levy Bruhl cho rằng tâm trạng các dân cổ sơ
là lạc hậu, là “chưa tới đợt khoa học lý luận nên gọi là tiền luận lý”. Đó cũng
là thành kiến của hầu hết mọi người trong thế hệ vừa rồi. Tự nay với cơ cấu
phải nghĩ khác. Cơ cấu sẽ nói với mọi người rằng: đừng lấy mày làm thây, hãy để
người khác tiếp tục là họ. Họ còn gần thiên nhiên nên cũng gần căn cơ hơn mày.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét