Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Phương Pháp Huyền sử

013019                       HUYỀN SỬ CỦA DÂN TỘC

     Đây là vấn đề  cốt lõi nhất của Triết Gia Kim Định, vì có thể cảm nhận ý nghĩa bằng Tâm tình khuất lấp giữa các dòng chữ, chứ không thể hiểu bằng Lý trí. Một bên thì phải Quy tư ( về nguồn Tâm Linh ) trở về nguồn Tĩnh và bên kia thì  Suy tư ( theo Khoa học ) thuộc nguồn Động.                                                                                           Đây là “Nghịch lý“ cần được giao hòa  theo “Đại Đạo Âm Dương hòa“.

   Thứ hai, đây là công trình mới khai phá tuy cần được hoàn chỉnh cho được thuyết phục hơn, nhưng không thể phủ nhận một cách thiếu cẩn trọng, vì thuộc lãnh vực Tâm Linh. Tâm Linh là nguồn gốc của con Người và Vũ trụ.

I.- Ý kiến của T.G. Kim Định về Huyền sử

1.- Trong Kinh Hùng khải triết

“Huyền sử là sử của những Huyền thoại hay bộ Huyền thoại của dân tộc“. Huyền sử là tự truyện của một dân tộc, bao nhiêu những kinh nghiệm tích lũy từ không biết bao nhiêu đời tiên tổ kết tinh lại. Xuyên qua đó thường được kể lại bằng những nét lung linh của sử mệnh của dân tộc, nên đó quả là những di bảo thiêng liêng chứa đựng những giá trị thâm sâu nằm giáp miền tiềm thức.
Có thể nói tác giả đã dựng nên những Huyền thoại cũng chính là Tiềm thức cộng thông của tất cả Tiên Tổ đã góp phần vào việc kiến tạo dân nước.
Nói đến tiềm thức là nói đến sự vượt biên cương lý trí phân minh, nên trở thành âm u. Vì thế những niên đại, những địa danh cũng như các nhân vật phải được hìểu một cách co dãn, chập chờn, vì đó chỉ là những mảnh vụn của lịch sử được Huyền sử dùng như tiêu biểu để nói lên những tư tưởng hướng dẫn cuộc sống của dân tộc, nên mang tên này hay tên khác, xảy ra nơi nọ hay nơi kia đều không quan trọng .
Huyền sử thuộc vòng trong tiềm ẩn không nhằm ghi chép sự kiện hay biến cố ngoại diện như sử ký, mà cốt nhằm phác hoạ những hình ảnh văn hoá, những mẫu mực chung của lối sống, nghĩ, cảm, là những dạng thức có liên hệ mật thiết với hoàn cảnh nơi ấy, nên khi nào, con cháu muốn tìm ra những làn sóng ngầm của lịch sử dân tộc cũng như cái nhìn soi dọi vào đời sống hiện đại để tìm ra những mẫu mực căn bản thì cần phải mở một cuộc hội thoại thắm thiết với những di bảo nọ. Việc đó có thể gọi theo tiếng nói ngày nay là làm triết lý. Như thế, triết lý ở đây là một cuộc đào sâu kinh nghiệm sống của Tiên Tổ để lấy chất liệu tạo dựng những dạng thức canh tân hợp cảm quan thời đại ”.
( Kim Định : Kinh Hùng khải triết: Thanh niên xuất bản , trang 13 – 14 )

                                     2.- Trong Việt Lý Tố Nguyên

“ Huyền sử là sử của những truyền kỳ của những huyền thoại “. Huyền thoại là tiếng nói của tiềm thức cộng thông khác với lịch sử là phạm vi của lý trí.  Nhưng vì trong thực tế không thể phân biệt hẳn hai phạm vi nên hay có sự lẫn lộn nơi các tác giả, kể các tác giả có viết sách thực sự, nên đầy rẫy những lẫn lộn “ông nói gà, bà nói vịt “. Bà là tiềm thức nói về thực tại bao la như văn hoá, còn Ông lý trí lại đi nói về thực tại rõ rệt như chính trị.   
Vì thế cần thiết lập một môn mới để khai thác các nền móng kia mà môn đó tôi muốn thử khai mạc ở đây và xin đặt tên là Huyền sử.
Chữ Huyền nói lên tính chất u linh ( Việt điện U linh cũng như Lĩnh Nam trích quái ).  Còn sử đi với huyền là một thứ sử rất mông lung với những niên kỷ co dãn như cao su kiểu 18 đời Hùng Vương, với những bờ cõi chập chờn sồi sụt và mênh mông của các nước Xích Quỷ, Văn Lang.
Vì lơ mơ. Nên duy sử cho là mơ hồ quái đản, đáng thải bỏ, ngược lại nếu là hon ó thì lại chấp nhận trọn vẹn kiểu nghĩa đen.  Hai tâm hồn đó không ở với nhau được. Nhưng cả hai đều đáng quý, vì cả hai đều có những đóng góp rất giá trị cho sự tiến hóa của con người.  
Vì thế Huyền sử muốn mở ra một đường hướng dàn hoà hai phe tân cựu: nó muốn duy trì hồn thơ của các cụ xưa, đồng thời áp dụng đúng mức phương pháp khoa học của thời nay: nó muốn là một nhà khoa học ưa thích nguồn thơ, hay lại muốn mơ mộng, nhưng lại theo lối khoa học. Để được như thế, nó tính đi lối toàn thể nghĩa là dùng tất cả khảo cổ, lịch sử, văn hoá, văn chương, truyền kỳ, thần thoại, nhất là lối nhìn toàn cảnh: đặt nặng trên những điểm tựa có bảo đảm, để tìm được ra những gì ẩn hiện mung lung, và cuối cùng dẫn đến một thứ triết sử hay là văn hoá sử, không là văn học cũng không là văn minh.

Vì Việt Nam và Trung Hoa cổ đại có cùng một nền văn hoá, ít ra đại đồng tiểu dị, nên huyền sử của Trung Hoa có liên hệ mật thiết với huyền sử của Bách Việt, trong đó có tổ tiên chúng ta. Do đó Trung Hoa cổ đại đối với ta phải có hai khía cạnh là văn hoá với chính trị. Thường tình người ta chỉ xem nước Tàu như như một thực thể chính trị, mà quên mất khía cạnh văn hoá chung trong quá trình hình thành tạo dựng. Đó là điều thiếu sót cần được bổ khuyết
Muốn lên tận đoạn đó chúng ta phải vượt qua giai đoạn Tần Hán, để đi từ Khổng Tử trở lên đến quãng khuyết sử mịt mờ, lúc mà những tiền nhân ta còn sống dưới quyền hướng dẫn của họ Hồng Bàng trong miền Hoa Hạ, tức là miền sông Lạc, sông Hà và vùng Hồ Quảng, trong những miền đất của Kinh, Sở, Man, Châu Dương, Động Đình hồ, An Huy ( sông Hoài ), Chiết Giang, Giang Tô, Bành Lãi. Đấy là những lãnh vực mà tiên tổ ta đã có những mối liên hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá với các dân vùng xung quanh: và do đó đã lập thành cái nhân của dân tộc chúng ta. Có thể quả quyết rằng cái gì đã xẩy đến cho những dân Man, Miêu, Thái, Ngô, Di, Địch, Sở, nhất là Sở, thì cũng đã âm vang tới tiền nhân ta. Bởi vậy phải coi Dương Tử giang như xương sống, các châu Kinh, Dương, Hoài, các nước Ngô, Việt, Sở, các hồ Động Đình, Bành Lãi, Thái Hồ như liên bang cùng chung vận hệ lịch sử  . . .
Đấy là những vùng âm u, theo nghĩa còn bờ cõi cố định với những sử liệu xác thiết, nhưng bó buộc chúng ta phải lặn lội tìm tòi, nếu ta muốn tìm xa về cội nguồn của nước nhà, vì đây là một thời mang nặng những nguyên tố cấu tạo nên tâm thức của dân tộc, nên ta coi việc nghiên cứu này như một cuộc hành hương tìm về với những trang huyền sử rất nắm sai bài học và lúc ấy chúng ta sẽ thấy về mặt văn hoá thì huyền sử nước Tàu không còn là của riêng nước Tàu  nhưng trở thành di sản chung cho cả khối văn hoá của liên bang Bách Việt, nơi mỗi nước Viễn Đông phải tìm về và đưa ra một dịch bản soi sáng cho từng ngành văn hóa riêng của mình, sao cho duy trì được cả gốc chung cũng như cả ngành riêng.  Bí quyết của sự thống nhất và đồng thời nằm ở chỗ đó.
Huyền sử Trung Hoa gồm 3 giai đoạn: là Tam Hoàng, Ngũ Đế và Tam Đại.
Tam Hoàng là: Toại Nhân, Phục Hy và Thần Nông  ( thuộc Viêm Việt  ).
Ngũ Đế là: Hoàng đế, Chuyên Húc, Đế Cốc,  Nghiêu, Thuấn.    
Tam Đại gồm: nhà Hạ ( Vũ ) 2205, nhà Thương ( Thành Thang) 1766, nhà Chu ( Vũ Văn, Chu Công ) 1122 ( thuộc Hoa Việt ). ( Theo cách xếp của Tư Mã Quang ).

                                        3.- Trong Dịch Kinh Linh Thể

“ Sử mệnh nói lên sứ mệnh của một dân tộc nhất định phải thi hành trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Sử mệnh vì thế đã được thích nghi với hoàn cảnh, với khu vực và thường được các bậc hiền triết của mỗi dân tộc thấy trực thị rồi diễn đạt qua những trang huyền sử.
Huyền sử cũng là lịch sử nhưng rộng hơn nhiều vì bao cả dĩ vãng lẫn tương lai, nên có tính cách siêu thời gian. Vì thế những trang huyền sử là quý nhất trong cái di sản thiêng liêng của một nước.
Nhưng chính vì chỗ thiêng liêng, chỗ bao la phi thời gian đó nên mung lung như ẩn như hiện, dễ bị con cháu để phai mờ mất ý thức. Do vị trí nằm trong văn hoá Viễn Đông của Bách Việt, nên sử mệnh Việt Nam có thêm hai đặc điểm: Một là được phổ vào những truyện đầy thơ mộng mà lại rất tinh khiết. Thứ đến là được chắt lọc để kết tinh vào một nền minh triết siêu tuyệt rất gọn ghẽ để gửi lại cho con cháu vạn đại như bức di chúc tinh thần. 
Nhưng một điều không may đã xảy ra đến cho một dân tộc là đã quên đi mất ý nghĩa của những trang sử mệnh đó và vì thế nhân loại đang bước đến bờ vực thẳm.
Vì thế chúng ta cần đọc trở lại, cung kính lần từng trang huyền sử nói lên cái sứ mạng cao cả của dân tộc hầu tìm ra chủ đạo dẫn đường cho dân nước trong giai đoạn nguy nan nầy ”.
( Dịch Kinh linh thể: Kim Định . An Việt Houston, tr. 7 )

4.- Trong Loa Thành Đồ Thuyết

“ Việt Nho không chỉ có nghĩa là của người Việt xét như con dân đất nước Việt Nam, dù rằng trong quá khứ Tổ tiên ta có đóng góp vào việc hình thành Nho giáo đến đâu đi nữa”.
Vậy Việt Nho ở đây nhằm nghĩa là đạo lý của những người biết vượt qua những cái bé nhỏ, biết siêu lên, biết đi mãi trên con đường tiến hoá, một cuộc tiến hoá không biên cương, không bờ bến, không nói ra được, nên nhiều khi dùng lời âm u co dãn là thần thoại là huyền thoại.  Huyền thoại có nhiều nghĩa:
          Tầng thứ nhất là nghĩa đen nói đến cái gì thì hiểu về cái ấy, nói cái bọc 100 trứng thì hiểu có một cái bọc với 100 quả trứng. Đó là nghĩa Trứ hình, tức sáng lên trọn vẹn ở hình tích hiện tượng, đàng sau không còn chi nữa.
          Tầng thứ hai chỉ những cái không hiện lên hình, nên có khả năng nhập thể ở nhiều trạng thái khác nhau, lúc đó sự việc dù có thể là thực, nhưng còn nhằm nói một cái gì cao hơn.  Thí dụ Đế Minh gặp Tiên trên núi Ngũ Lĩnh có thể chỉ việc trai Bắc lấy gái Nam, nhưng đồng thời nó chỉ tinh thần Bắc phương giao thoa với văn hoá Nam phương.
          Với ý này chúng tôi gọi là huyền sử: Đó là một loại minh triết nhưng trình bày bằng những mảnh vụn lịch sử.  Đây là ý nghĩa thuộc tầng thứ ba liên hệ tới con người xét là người không kể thuộc dân nước nào cả, thí dụ Bàn Cổ, Nữ Oa không còn là mảnh vụn của sử nữa mà là những sơ nguyên tượng của một nền Nhân chủ trung thực.
Trên đây là ba tầng ý nghĩa mà một câu truyện thần thoại hay truyền kỳ có thể bao hàm, nên thuộc cả Ý thức lẫn Tiềm thức.  Duy lý là chủ thuyết xây trọn vẹn trên ý thức, nên chỉ chấp nhận có nghĩa đen, vì thế bao nhiêu thần thoại đều bị họ gạt đi như những truyện nhảm, phải vượt qua duy lý mới nhận ra ý nghĩa sâu hơn.
Nghĩa tầng thứ hai đã được bàn trong Việt Lý Tố NguyênDịch Kinh Linh Thể. Trong cuốn này (Loa Thành Đồ Thuyết) chú ý đến nghĩa thứ ba.

Những tác giả được nhắc tới trong tập Loa Thành thuộc Tâm phân và Uyên tâm nhất là của Karl Jung. Đó là những tác giả sẽ giúp chúng ta phần nào trong việc trình bày kiểu lý giải (ít ra ở đợt đối chiếu) về cái miền âm u bất khả ngôn mà chúng ta lại cứ muốn ngôn. Bởi chưng ở trong những tầng sâu thẳm thì biên cương giữa khả ngôn và bất khả ngôn nhập nhằng sồi sụt, thế mà lý trí con người  cứ tiến mãi, nên phải đẩy xa mãi khả năng khai triển của mình ít ra tới hết mức có thể trong việc muốn vượt sang cõi vô biên.    Đấy là chỗ Việt Nho khác Duy lý.
Duy lý định cư lại trên lý trí. Việt Nho cũng lý trí  nhưng không phải là để ở lại đấy. Song là để đạt tới cái mênh mông, đặt nhịp cầu hội thông giữa Ý thức và Tiềm thức, nói kiểu xưa là giữa Nội với Ngoại, giữa thiên với Địa, giữa Âm với Dương. Dù gọi bằng tên chi đi nữa nhưng chính là sự giao thoa giữa hai đối cực đó làm nên nhân tính và đạo làm người chính là giúp hiện thực được sự giao thoa động đích đó.  Thành tựu là thành nhân, thất bại là sa đọa.”
( Loa Thành Đồ thuyết: 2. Phương pháp Việt Nho. Tr. 11- 13. Kim Định ).

Sử mệnh nói lên sứ mệnh của một dân tộc nhất định phải thi hành trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Sử mệnh vì thế đã được thích nghi với hoàn cảnh, với khu vực và thường được các bậc hiền triết của mỗi dân tộc thấy trực thị rồi diễn đạt qua những trang huyền sử.  Huyền sử cũng là lịch sử nhưng rộng hơn nhiều vì bao cả dĩ vãng lẫn tương lai, nên có tính cách siêu thời gian “. 
Còn những người Duy sử thì coi huyền thoại là những chuyện đầu Ngô mình Sở, còn vua Tự Đức thì cho là những chuyện “ Trâu ma thần rắn ”cần phải thải bỏ,  cho rằng thiếu nền tảng khoa học. Điều này không đúng, vì Huyền sử  không thuộc phạm trù khoa học!”

 II.- Ý kiến của học giả ngoại quốc về Huyền sử
“ Bộ huyền thoại của một dân tộc là là đạo sống của dân tộc đó. Nếu mất huyền thoại thì thì bất cứ một dân tộc nào, kể cả những dân tộc văn minh nhất cũng sẽ sụp đổ khủng khiếp ”.
( Karl Jung )

“ Bộ huyền thoại của một dân tộc không phải là những chuyện hoang đường, mà là những chuyện gần chân lý nhất, hơn nữa bộ huyền thoại là gia sản quý báu nhất vì tính chất thiêng liêng điển hình và mang lại ý nghĩa sống ”.
( Mircea Eliade )

“ Không có bộ huyền thoại thì không thể thành một dân tộc được. Dân tộc nào không có bộ huyền thoại không thể được coi là có văn hoá hay văn minh gì hết, vì bộ huyền thoại là những câu chuyện diễn tả tinh thần của dân tộc ở mức độ cao nhất và cũng là di sản thiêng liêng của dân tộc đó ”.
( Laurens Van Der post )

“ Mất bộ huyền thoại là mất mạch nối vào nguồn quá khứ tổ tiên và mất luôn căn bản cho việc xây dựng tiền đồ dân tộc. Dân nào mất bộ huyền thoại, dân tộc đó quả thực bị coi như không còn nữa ”.
( Wallace Cliff )

“ Sử mệnh nói lên sứ mệnh của một dân tộc nhất định phải thi hành trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Sử mệnh vì thế đã được thích nghi với hoàn cảnh, với khu vực và thường được các bậc hiền triết của mỗi dân tộc thấy trực thị rồi diễn đạt qua những trang huyền sử. Huyền sử cũng là lịch sử nhưng rộng hơn nhiều vì bao cả dĩ vãng lẫn tương lai, nên có tính cách siêu thời gian “.  ( Kim Định )

Việt Nam có “ Lĩnh Nam Chích quái”, Việt Điện u linh “cũng như một số truyền kỳ khác như  Văn học của Hoàng Trọng Miên … đều thuộc Huyền sử, T.G. Kim Định có tuyển chọn 15 truyện được gọi là Kinh Hùng. Chúng tôi đã có khai triển trong cuốn “ Văn Hiến Việt Nam. “
( Kim Định : Kinh Hùng khải triết: Thanh niên xuất bản , trang 13 – 14 ).

III.- Nghệ thuật giải nghĩa

( Cơ cấu Việt Nho: Kim Ðịnh. Tr. 55 - 109 )

1.- Vấn đề lớn của Triết hiện đại

“ Tất cả được nói rồi trong các thần thoại, chỉ còn phải tìm hiểu ” ( P. Ricoeur.)
Tất cả nền minh triết, cũng như túi khôn loài người đã được nói ra hết rồi, nhưng còn nằm tàng ẩn trong các truyện: truyền kỳ, huyền thoại . . . Triết gia khỏi đặt thêm thuyết mới mà chỉ cần phát giác ý nghĩa của chúng. Ðó là sử mệnh: “ Tout est dit dans les mythes. Reste à comprendre ”. Nhưng muốn hiểu thì cần được trang bị cách nào, và nhất là phải biết cách vận dụng những tri thức ra sao, chẳng hạn phải biết bầu khí văn hoá nào nuôi dưỡng những huyền thoại nọ: Nông hay Du ? Rồi ý nghĩa những con số cũng như cái giống của các thần . . .  Ðó có thể là những đầu mối giúp lần ra tông tích, tìm ra cơ cấu. Và đấy là con đường dẫn tới chỗ thành tựu. Bởi vậy tìm ra ý nghĩa huyền sử sẽ là điều quan trọng nhất trong nền triết học hiện đại, cho nên nó đang trở thành một khoa học khoa giải nghĩa huyền sử, giải nghĩa biểu tượng. Ðó sẽ là đối tượng phần nhì của quyển sách này. ( Cơ cấu Việt Nho ).
Phần hai này trình bày một số quy luật mà chúng tôi đã rút ra tự Việt Nho cũng như từ những khoa nhân văn hiện đại như:
                   Dân tộc học.
                   Phân tâm học.
                   Cơ cấu luận. . .
Ðể gọi là đóng góp vào nền triết văn của nước nhà.  Trước khi bàn giải về những luật tắc giải nghĩa cần phải biết sơ qua bầu khí của huyền sử.  Ðó là điều tối quan trọng. Sở dĩ hiện nay hầu hết các khoa nhân văn đều bàn đến thần thoại là vì cuối cùng người ta mới nhận ra sự quan trọng của những cái ban sơ. 
Nó là lý tưởng uyên nguyên giàu năng lực hướng dẫn. Vì thế con Người chỉ có thể tạo dựng được những gì lớn lao bền vững là khi biết trở về với nó. Một dân tộc cũng giống như đời sống của một con người được kéo dài. Vậy mà đời sống tiềm thức của cá nhân được tổ chức vào quãng 10 năm đầu, sau đó có học hỏi thêm hay được huấn luyện thì hầu hết cũng chỉ là biến cải chút ít ngoài mặt.  Về một dân tộc cũng thế: nền móng lý tưởng của nó đã được hình thành ở những bước sơ khởi mà nay ta gọi là huyền thoại, và đó sẽ là nhiên liệu cho huyền sử.
Huyền sử nói lên lý tưởng công cộng của một dân được biểu lộ qua những vụn mảnh của lịch sử.  Phải dùng sử có tính chất cụ thể dễ hiểu cho mọi người. Nhưng tại sao lại dùng mảnh vụn lịch sử.  Thưa trước hết vì đó là thời tiền sử, khuyết sử, chưa có sử ký ghi chép các biến cố cách liên tục theo tuế thứ. Lẽ thứ hai quan trọng hơn nhiều, đó là huyền sử chỉ là lý tưởng, mà đã lý tưởng thì không bao giờ được hiện thực đầy đủ: khi được điểm này lúc được điểm kia. Vì thế mỗi nhân vật huyền sử chỉ biểu hiện một vài tác động để biểu lộ một hai khía cạnh nào đó. Chính tính chất lý tưởng nọ mà Kinh Dịch kêu là : “ Tại Thiên thành tượng ”, chưa đạt lúc “ Tại Ðịa thành hình ”:
          *Thành hình thuộc sử ký nói về con người cá thể.
          *Thành tượng thuộc huyền sử bàn về những tác động lý tưởng phổ biến.
Nói theo cơ cấu luận nay thì sử ký là sử hàng ngang ( histoire diachronique ), huyền sử là sử hàng dọc ( histoire synchronique ).
Sử hàng dọc có tính cách Tâm linh xoay quanh những tác động lý tưởng biểu thị bằng những sơ nguyên tượng ( archétypes ), vì vậy giàu phổ biến tính. Khác với sử ký hàng ngang ghi các Biến cố ( évènementielle ), các dự kiện hiện thân vào các nhân vật có thể kiểm tra theo tuế thứ.

2.- Với huyền sử đừng hỏi ở đâu và bao giờ

Sở dĩ thế hệ trước e ngại không dám tìm hiểu và đề cao huyền sử như mô thức quan trọng, vì e rằng làm thế là thụt lùi lại đàng sau cùng hàng với dân Thái cổ tiền khoa học. Có sự e ngại như thế là bởi không nhận ra tính chất phổ biến của huyền sử: chưa có hiện thực được tròn đầy ở đâu cả, vì thế không phải là truyện đã qua cho bằng là truyện sẽ đến, không phải nhìn về đàng sau, mà là đàng trước; đúng hơn huyền sử thật cho mọi nơi, mọi đời, nên nói: “Cùng với mọi lúc” (synchronique, chữ syn = cùng với).
Vì chưa có bắt đầu, cũng chưa ở nơi nào cả = vô bổn phiêu giả, vô hồ xứ giả  “ Vrai mais irréelle ” = có thật đấy. Vrai như một lý tưởng nhưng chưa hiện thực được, nên irréel.
Mới là tiên thiên chưa đạt hậu thiên. Mới có Tượng chưa có Hình. Hình ở đây hiểu là hình tích đã hiện lên rõ rệt cụ thể. Vì vậy với huyền sử không nên hỏi Kinh đô nước Văn Lang ở đâu, thuộc đời nào ? Vì ở đâu hay bao giờ thuộc Thời Không bé nhỏ đã hiện hình, là điều là không có cho huyền sử. Ở huyền sử chỉ nên hỏi nó là những mẫu tượng những điển hình cho tác động nào, biểu lộ nguyên lý nào đó? Thí dụ câu nói: Âu Cơ đẻ cái bọc trăm trứng, nên sợ hãi đem bỏ ngoài đồng thì ý nghĩa đợt xã hội ra sao, ý nghĩa minh triết ra sao? Chứ đừng hỏi có hợp sinh lý hay không ? Vì thế cũng đừng lo rằng thiếu phương tiện di chuyển thì làm sao Ðế Minh tuần thú phương Nam được, vì Ðế Minh chỉ là sơ nguyên tượng đi tìm ánh sáng ( biểu thị bằng phương Nam ).  Ðừng tra xem trong lịch sử có ai đẻ trứng. Vì Âu Cơ chỉ là sơ nguyên tượng. Cái bọc không có ý nói cái bọc, trăm con không có ý nói trăm con.
Nói mà không nói, thế mới gọi là huyền sử.” 

3 .- Giai tầng giá trị huyền sử

Vì thế đứng ở phương diện tìm hiểu lý tưởng của một dân, tìm hiểu cơ cấu của một nền văn hoá thì huyền sử trở nên giá trị vô kể. Nó giúp chúng ta trong hai điều quan trọng:
Trước hết là tìm ra những điểm đại đồng giữa các dân tộc. Vì có những thần thoại  xẩy ra hầu như khắp nơi trên mặt đất: thí dụ tạo dựng loài người, đại hồng thuỷ, sa đọa của con người ... vì đó mà các nhà cơ cấu tin vào bản tính đồng nhiên con người. Bởi chưng đâu đâu cũng có chuyện tương tự. Hãy lấy thí dụ: chuyện Ngọc Hoàng.  Ngọc Hoàng dùng đất sét nặn ra người, xong rồi đem phơi nắng cho khô, bỗng gặp mưa, vội vàng đem các tượng cất đi, song có vài tượng cất không kịp, bị nước mưa làm hư. Các tượng hư hoá thành người tàn tật trên mặt đất, còn những tượng cất kịp thành những người lành lặn đủ tay chân ( Văn học I . 64  ).  Ðọc truyện trên ta thấy cũng dùng đất nặn nên người như trong truyện Adam ..., rồi cũng như mọi nơi vẫn có truyện không may khi nặn ra người: phơi chưa khô mà phải cất đi nên nay nó mới thối nát như vậy. Nếu Thần thoại Hy Lạp có Prométhée ăn trộm lửa, thì bên Việt Nam cũng có thằng Bợ ăn cắp lửa của bà Hỏa, đem đi gây tai họa cho loài người ( Văn học I . 65 ).  Nếu trong Thánh Kinh có chuyện ông Josue kéo mặt trời lại cho ngày dài ra, thì bên ta trong thần thoại Bana “ Dũng sĩ Diong cũng xin chư thần kéo lui mặt trời lại đúng ngọ, để cho tôi giết tất cả quân thù ” ( Văn học I . 158 ).
Như vậy xuyên qua cái bề ngoài coi như vô lý, bất tất, lại có cái gì giống nhau. Câu “Ðại đồng tiểu dị” nhờ đó trở nên xác định hơn, chi tiết hoá hơn. Và lúc bấy giờ mới nhận ra rằng thần thoại chính là những bản đúc kết biết bao kinh nghiệm như ấn tích đầu tiên của con người trên đường thực hiện nhân tính, nên cần truyền tụng lại cho các thế hệ về sau. Thế nhưng chữ viết mãi sau này mới xuất hiện, còn bao nhiêu ngàn năm trước toàn là truyền khẩu.
Trong văn chương truyền khẩu thì huyền thoại là phần chính, nếu thải bỏ thì không còn được mấy tiêu điểm để đi sâu vào trong dĩ vãng. Giá trị của thần thoại không nằm trong câu văn, nhưng trong cái gì bàng bạc.
Vì thế Ðường thi ví dụ có hay hơn Kinh Thi đi nữa cũng không đủ sức lôi kéo triết gia như Kinh Thi vì thiếu cái u uẩn của cái ban sơ đó, khiến cho không có mà lại có. Nói sau lại hiểu về trước, vì nói lên khởi điểm cũng là nói lên đích điểm. Bởi thế huyền sử mới gọi là sử mệnh.
Tức là khi đã xác định được phần nào cái lý tưởng của một dân thì chúng ta có được một tiêu điểm để ước lượng được một dân  đã đạt sử mệnh đến đâu. Như thế ta thấy thay vì thải bỏ thần thoại thì lại cần bàn về phương pháp “ đọc ” thần thoại. Nói khác đi là cần thiết lập những quy luật phải giữ mỗi khi muốn gán ý  cho một thần thoại.

4.- Quy luật của huyền sử

Sở dĩ phải bàn riêng quy luật huyền sử vì nó là một thứ gạch nối giữa tiềm thức và ý thức, giữa hàng dọc Tâm linh và hàng ngang Lý trí, nên không thể đem những phương thức của sử ký áp dụng vào đây mà cũng không thể đọc bừa bãi tuỳ hứng tuỳ thị hiếu hay ý hệ mà giải nghĩa lung tung tuỳ thích. Muốn xác định phương thức của huyền sử chúng ta cần nhận chân tính cách Lưỡng diễn của nó: Tính chất đó vừa u linh vừa xác định.
Vì thế vừa phải dùng lịch sử để soi vào miền u linh, lại dùng u linh lý tưởng để nối kết các mảnh vụn thuộc huyền sử.  Như thế là có hai điều kiện :

a.- Hai điều kiện

          * Tiềm thức cần cho mạch lạc nội tại

Một cho tiềm thức thì cần mạch lạc nội tại để làm mối nhất quán.

          * Ý thức cần sự kiện lớn lao của lịch sử

Hai là phần gửi cho ý thức thì cần những sự kiện lớn lao thuộc sử để làm tiêu điểm hầu tránh mung lung. Sở dĩ đưa ra hai điều kiện trên vì huyền sử ăn sâu vào tiềm thức nên cần những phương pháp thăm dò tiềm thức. Những phương thức dưới đây là hậu quả đúc kết tự nhiều khoa học: Trong đó phải kể Dân tộc học, Cơ cấu luận và Tâm phân học.
Vậy trước hết xin đưa ra một ví dụ về phân tâm của Freud khi giải nghĩa chiêm bao, vì huyền sử là chiêm bao của một dân. Nếu chiêm bao biểu lộ tiềm thức cá nhân thì thần thoại là sản phẩm của tiềm thức, nhưng là cộng thông nên phương thức giúp giảng nghĩa chiêm bao phần nào cũng giúp giảng nghĩa thần thoại. Vì cả hai đều thuộc cõi âm u không thể xác định nên phải nói gián tiếp bằng biểu tượng, bằng trá hình (déguisement), bằng chuyển di đối tượng. Thí dụ tác giả kia muốn sửa lại một đoạn văn mới viết thì ban đêm mơ mình đang bào một khúc gỗ. Mong có một cái xe thì đêm nằm mơ thấy mình ngồi trên xe. Một bà ghét em dâu quá đến nỗi đuổi em ra khỏi nhà: đêm nằm mơ thấy mình đang giết một con chó trắng. Trong ba thí dụ trên, khúc gỗ thay cho đoạn văn, ước có xe thay vào bằng ngồi trên xe, con chó chỉ em dâu, mà tiềm thức bà muốn giết, nhưng ý thức không dám nên chỉ đuổi đi ... Ðó gọi là chuyển di đối tượng. Do vậy mà lối giải nghĩa chiêm bao ngày nay khác lối xưa.   Xưa kia các nhà nghiên cứu chiêm bao cố gắng thiết lập một bảng chìa khoá thí dụ mơ thấy màu đen là chết, đàn bà sợ đàn ông dữ tợn đêm mơ thấy con dao hay vật gì nhọn, còn đàn ông mơ  thấy cái gì rổng: một hốc đá, một cái tàu chỉ hốc đá hay cái tàu là đàn bà. Mơ thấy nước là sinh nở, mơ sư tử là cha ... Có thể kể ra vô số, nhưng chính vì bảng quá dài nên cũng trở thành bất xác định.

b.- Hai Phương pháp

* Liên tưởng

Bởi thế trong quyển “ Khoa học giải nghĩa chiêm bao ” Freud đã đưa ra phương pháp liên tưởng. Muốn biết ý nghĩa một chiêm bao phải hỏi người mơ liên tưởng đến gì lúc mơ hay lúc kể lại giấc mơ để nhà tâm phân dùng làm điểm tựa đi tìm ý nghĩa.
Thí dụ người mơ thấy mình đang bào gỗ, thì chưa thề tìm ý nghĩa, nhưng vì ông nghĩ đến chữa văn chương thì sự liên tưởng giúp cho xác định ý của giấc mơ. Hỏi có thể đem luật đó áp dụng vào huyền sử được chăng? Thoạt tiên tưởng là không vì thiếu liên tưởng, nên thiếu điểm tựa. Nhưng xét kỹ thì lại có: đó là những thể chế, cổ tục, tin tưởng ... đã có đồng thời với lúc hình thành của huyền thoại. Nói khác đi huyền thoại hình thành ở đâu vào lúc nào thì bầu khí xã hội ở đó, lúc đó đóng vai trò liên tưởng.
Vậy liên tưởng trong huyền sử chính là những sự kiện lịch sử lớn lao như cuộc “Nam  tiến” của tiền nhân ta, là vì nó đã xẩy ra ngay từ thời khuyết sử.
Ngoài ra là những phong tục, định chế, lễ lạy của cổ thời, mà nay ta không biết có tự lúc nào, thí dụ tục lệ cưới Rể giúp hiểu vụ Trọng Thuỷ về ở với Mỵ Nương. Lối tính họ theo bên mẹ giúp hiểu tại sao Sùng Lãm lại gọi theo tên mẹ  ( Long Nữ ) và tên đất ( Lạc ) là Lạc Long quân ...  Ngoài ra còn kể đến ca dao, tục ngữ, đồng diêu, những câu truyện cổ tích trong nhân gian cũng có thể coi là những chứng từ quý báu, những mối liên tưởng khả dĩ soi vào nội dung huyền sử.
Tóm lại điều kiện trước nhất là phải tựa vào sự kiện lịch sử, những phong tục thể chế, và cả những câu ca dao, tục ngữ ... để cho sự giải nghĩa thần thoại có được phần xác đáng tương đối.

* Mạch lạc nội tại

Bây giờ bàn đến một điều khác là sự mạch lạc nội tại ( la cohérence )  là điều tối quan trọng, nó là cái nét “Dĩ nhất quán chi” đem lại cho câu chuyện lẻ tẻ một sự thống nhất sống động. Cho nên càng đặt nổi điểm này thì sức linh động càng trở nên mạnh mẽ.  Ðã vậy nó đem lại cho sự giải nghĩa tính chất khoa học, tức là nó thay chế cho tính cách khách- quan- ngoại- tại chỉ có trong khoa học thực nghiệm chứ không thể có trong thần thoại, cũng như trong các khoa nhân văn. Vì thế cần phải tìm một đức tính khoa học khác bù vào chỗ thiếu nọ và đó sẽ là sự mạch lạc nội tại. Ta sẽ tìm ra nó ở những câu chuyện xẩy ra nhiều lần, thí dụ truyện trăm trứng xẩy ra rất nhiều nơi. Truyện lụt cả, hay là những con số thí dụ những con số trong Ngũ hành như 2 , 3, 5, 9. . . sẽ nói dưới. Nhà nghiên cứu nên chú ý đến những câu chuyện giống nhau đó, suy nghĩ kỹ là đi trên đường dẫn tới mối mạch lạc nội tại.
Ðó là điều kiện thứ hai khiến cho sự giải nghĩa huyền sử không đến nỗi vu vơ vô nền.
Mặc dầu nó không thể vượt mức cái nhiên ( probable )  là điều chỉ dành cho khoa học thực nghiệm vì nó có tính cách khách quan. Còn nhân văn thì chỉ đạt đến sự chắc chắn cái nhiên, tức chỉ có thể kiểm soát một mố bên Sử, để ước đoán ra mố bên Huyền.
Mố bên Sử ( những sự kiện lịch sử lớn, thể chế, phong tục, ca dao, tục ngữ  ) xác định phần nào nội dung, còn mố bên Huyền ( mạch lạc nội tại ) đem lại cho sự giải nghĩa sức sinh động của minh triết.  Làm được như thế thì Huyền sử đã đáng là danh hiệu là khoa học nhân văn. Vì con người vốn đã là một thực thể  đầy uyển chuyển, đầy u linh nên sự xác định không thể đi xa hơn được nữa. Hai đức tính cẩn thận dè dặt phải nhắc luôn cho nhà tâm phân khi giải nghĩa chiêm bao, thì cũng phải nhắc luôn cho những người đi vào huyền sử: Biết dừng ở chỗ phải dừng.  Ðấy đã là cửa đưa vào nhà minh triết.

IV.- Khi huyền sử đọc huyền thoại: 

Lên sổ huyền thoại

“ Sau khi đã đưa ra hai quy luật để giải nghĩa huyền thoại, bây giờ thử áp dụng vào một số huyền thoại, và chúng ta sẽ thấy lối đọc khác hẳn với những lối xưa nay. Trước hết hãy lên số một số huyền thoại:

1 .- Truyện  100 trứng thứ nhất

Thần thoại Mường kể rằng: Mặt đất vào thời kỳ ấy chưa có dấu vết loài người. Ngày kia có một cây si to lớn mọc trên núi cao bị bão đổ xuống, trong đó bay ra một đôi chim lớn. Ðôi chim này đẻ ra 100 cái trứng, trong số có 3 cái lớn dị thường. Ðẻ xong đôi chim biến thành người, gọi tên là Ay và Ua, tức là hai con người đầu tiên trên mặt đất. Bà Tiên cho Ay và Ua ba cái trứng sẽ nở ra 3 người, nhưng phải sau một trăm ngày.
*Quả nhất nở ra một người đại ca ( Kha ), *quả hai nở ra Lang - Ða - Cần, *quả ba nở ra con gái là nàng Kịt. Ba anh em sống chung với nhau trong hang Lôi Vang. Tù trưởng người Mường bị thú dữ ăn thịt, đến xin Lang Ðại ca làm tù trưởng, nhưng khi đi Lang Ðại ca bị con Hoa tinh đón ăn thịt, nên em là Lang Ða Cần phải lên thay. Sau còn phải dùng 3 loại cỏ, mỗi thứ 9 sợi, làm phép đánh nhau với Hoa tinh ( Văn học III ).

2.- Truyện 100 trứng thứ hai

Thần thoại Ai Lao kể rằng: “ Ngày xưa ở đất Mường Theng ( Ðiện Biên Phủ ) tự nhiên mọc lên một cây bầu to lớn, chỉ có một quả khổng lồ, khi chín có vô số người ở trong đó phá vỡ chui ra … người đi về Tây-Bắc - hành thuỷ - tổ Miến Ðiện, người xuôi theo sông Mê-Nam là dân Thái, người xuôi theo sông Mê Kông là dân Miên, người đi về hướng mặt trời mọc là dân Việt Nam. Còn nhiều người nữa, mỗi người đi một phương thành một tộc. Riêng có tổ tiên dân Kha và tổ tiên dân Lào là đi sau cùng.  ( Văn học I . 53 ).

3.- Truyện 100 trứng thứ ba

Thần thoại Mường với 100 trứng nở ra người, 50 người đi về mạn đồng bằng, còn 50 lên mạn ngược ( Văn học I. 53 ).

4 .- Truyện 100 trứng thứ tư

Người Phủ Nội cũng trong quả bầu chui ra. ( Văn học I. 124 )

5 .- Truyện thần thoại Lô Lô về 100 trứng

Hai người Nam Nữ đầu tiên xuất hiện trên mặt đất, không có cha mẹ vì họ do đất nặn ra … Sau đó hai người kết làm vợ chồng. Người đàn bà đẻ ra một quả bầu đầy hột, mỗi hột hoá thành một người.  ( Văn học I.  135 ).

6 .- Truyện rùa vàng

Ngày kia Lang - Ða - Cần đi thăm ruộng gặp một con rùa màu vàng to lớn khác thường, để đền ơn khỏi bị làm thịt nó hiến Lang - Ða - Cần một kiểu mẫu để xây cất ngôi nhà. Lang - Ða - Cần lấy vợ tên là bà Chu bà Chuông  đẻ được 9 con trai. Người con cả nối nghiệp cha, còn 8 anh em lập thành 4 họ lớn, sau đó sinh ra 9 con gái là vợ các lang. ( Văn học I . 112 ).

 7 .- Truyện cây Chu Ðồng

Lang - Cần chết, con là Rịt-Ràng ( Thục )  lên thay, giàu có, nhưng chưa có lâu đài. Thần Kem - Ca cho biết ở phía Bắc có một cây sắt, và phía Tây có một cây đồng. Thân cây rộng 14 sải tay, vươn cao tới trời, nên dùng hai cây đó mà cất cung điện, gọi là cây Chu đồng.

8.- Thần thoại Thái

Ngày xưa trời đất liên lạc với nhau bằng một cây song lớn, nhờ đó mà dân trên trời dưới đất giao thiệp được với nhau. Trên mặt đất có một người đàn bà goá có một con trai thường đi lại trên trời, một hôm mẹ đập lúa gọi con về giúp, nhưng nó cứ ở lì lại trên trời, bà giận lấy mác chặt đứt cây song, từ đó đường đi lại giữa trời đất mất.
          * Thời ấy cây cối loài vật đều biết nói: ông trời giả vờ chết để thử lòng chúng xem đứa nào trung thành. Tất cả đều nói: ông Tổ chết rồi, chúng ta tha hồ theo ý mình.
* Con người được rùa dạy cho nên nói: ông trời chết rồi, tôi không có chốn ở, ông Tổ chết rồi không có gì để ăn. Trời thấy vậy cho phép người ăn thịt các giống thú.

9.- Trời làm Hồng thuỷ

Trời làm Hồng thuỷ, nước dâng cao tận trời, tất cả mọi vật đều chết. Sau đó trời đưa xuống những sinh vật khác. Tao Suông và Tao Ngân từ trời đưa xuống mặt đất 8 quả bầu và 8 cái gậy. Trong quả bầu có 330 giống lúa và 330 giống người, và những sách dạy phép phù thuỷ, bói toán, tiên tri. Tao Ngân lấy công chúa là nàng Um  đẻ ra được 18 đứa con.

10.- Thần thoại Khả

Con chuột nói với hai chị em: trong 6 ngày nữa sẽ có lụt lớn, nếu các người muốn thoát thì phải chặt một cây, đẽo một đầu để dành thức ăn vào đó rồi buộc vào cây vả rừng, hai người ở trong đó, nhớ lấy sáp ong bịt lại cho kỹ. Sau 6 ngày quả xảy ra lụt. Lụt xong chui ra thì loài người chết hết. Có chim tên là Mông đến khuyên hai anh em lấy nhau, ít lâu sau người đàn bà đẻ ra quả bầu tự đó chui ra vô số người … Ðể nhớ ơn chim người ta xây đền gọi là chùa ông Mông.

11.-  Thần thoại Mèo về tạo lập vũ trụ

Chữ Làu ( Thượng Ðế ) sáng tạo trời và đất trong 7 ngày, trời trước đất sau. Trên trời chưa có tinh tú. Chữ Làu mới tạo ra 10 mặt trời và 9 mặt trăng. Mặt đất nóng quá, loài người liền hạ cây làm cung bắn 9  mặt trời và 8 mặt trăng.

12.- Hồng thuỷ

Chữ Làu bảo hai anh em làm cái trống chui vào tránh lụt. Chữ Làu nhìn xuống thấy nước tràn ngập mới sai 9 con rồng rút nước cho ráo mặt đất. Nước rút hết hai anh em ở trống chui ra, thấy loài người chết sạch. Một con đại bàng bay lại mang hai chị em trên cánh đến một chỗ cao.

13.- Sáng tạo loài người

Khi mặt đất khô ráo rồi, Chữ Làu lấy một nắm đất nặn thân hình con người đầu tiên, hả sinh khí vào miệng, cho hồn vào bụng và tiếng nói ở cổ họng. Sau đó chữ Làu đưa đến cho người đàn ông một người đàn bà, để hai bên lấy nhau. Chữ Làu làm ra thức ăn để nuôi vợ chồng cùng các súc vật cho họ dùng, nhưng vẫn để họ trần truồng, Chữ Làu giao tiếp thẳng với họ trong ban ngày. Ðến sau chỉ cho biết ý mình ban đêm qua trung gian một người con gái hiện ra trong mộng. Loài người trở nên đông đảo trên mặt đất, họ tiếc nhớ những lạc thú ở vườn Giu- Giang - Ka, mới quyết định trở lại tìm. Họ rủ nhau xây một cái tháp cao để trèo lên trời. Chữ Làu thấy vậy nghĩ rằng sở dĩ loài người có thể xây được cái tháp đó vì tất cả đều nói một thứ tiếng và ở một chỗ, vậy phải phân tán họ đi khắp mặt đất và bắt họ phải nói nhiều tiếng khác nhau. Chữ Làu bèn dùng sét đánh tất cả những người trèo lên trời. Từ ngày đó mỗi gia đình có một thứ tiếng khác nhau, người ta không còn hiểu nhau được nữa, nên phải phân tán ra mọi nơi. ( Văn hoá I. 128-129 ).

14.- Vườn Ðịa đàng và bà Eva bên Ðông phương

Chữ Làu sáng tạo ra con người, không chết, ai cũng sống 9000 năm rồi chết để vào vườn cực lạc gọi là Giu- Giang- Ka. Sau 12 hôm  thì lột xác như rắn sống lại trẻ trung. Sau đó một mẹ chồng trở lại bị con dâu rủa sao còn về làm chi. Mẹ chồng tức quá trở lại vườn Giu- Giang- Ka uống nước và ăn trái cây mà Chữ Làu đã cấm. Từ đó Chữ Làu không cho con người vào vườn nữa. Con người chết và chết luôn. Ban đầu đất sản sinh ra đủ thứ hoa trái, nhưng tự ấy con người phải làm việc vất vả mới có ăn.  Ðó là nguồn gốc của nước mắt, mồ hôi, thẹn thuồng và cũng là nguồn gốc của sự chết.
(Tất cả các truyện trên trích trong Văn học toàn thư của Hoàng Trọng Miên)

V.- Giảng nghĩa

Trên đây là một số huyền thoại, nếu đọc thường thì chỉ là những chuyện lạc chạc, quái dị, xô bồ, cùng lắm để làm truyện vui, nhưng khi đọc những luật tắc đã quy định ở trên và phân tích từng tố nguyên để đối chiếu so đo và sắp loại thì sẽ nhìn ra được những dạng thức căn bản chi phối một dân xuyên qua dòng lịch sử của dân ấy, và do đó làm nổi bật lên được những nét căn cơ giúp chúng ta nhìn sâu hơn, kỹ lưỡng vào cơ sở tinh thần dân tộc. Thí dụ đầu tiên là hầu hết các truyện có phảng phất Thánh Kinh về lụt cả, về dựng nên loài người về vườn Ðịa đàng Giu- Giang- Ka, có tháp cao gây ra những ngôn ngữ dị biệt.  Ðiều đó nói lên bản tính đồng nhiên  của con người.

1.- Tinh thần công thể

Nhưng trong cái đại đồng đó lại có tiểu dị nói lên nét đặc trưng của Văn hoá Việt Nho biểu lộ qua cái bọc 100 trứng và những con số.
Truớc hết bàn về sự lặp đi lặp lại câu truyện đẻ ra 100 trứng nói lên nét đặc trung là tinh thần công thể ( esprit communautaire ) nổi bật hơn bên Âu Tây, nơi mà anh Cain ghen tỵ nên giết em là Abel. anh Esau tranh giành với em Jacob …, nói lên óc cá nhân, tranh đấu để sinh tồn. Cả hai tinh thần    ( Công thể và cá nhân ) đều hiện diện khắp nơi gây nên nhiều sắc thái do mức độ giao thoa và liều lượng của mỗi yếu tố. Vì là hai yếu tố quan trọng không thể thiếu trong nền văn minh nào, nhưng sự khác biệt là do liều lượng.
Thí dụ, Việt Nho đặt quan trọng trên công thể 3 lần còn cá nhân 2 lần. Ngược lại Tây Âu cá nhân 4 lần, công thể 1, nên ta gọi văn minh họ là cá nhân; còn ta là công thể.  Lúc ấy cái bọc Âu Cơ trở nên một tiêu điểm rất quý cho chúng ta khi nhìn vào dòng sử mệnh nước nhà, biết ngay là nó thuộc loại văn minh tôn trọng cộng đồng, công thể và đã hiện thực vào cái làng Việt Nam.

2.-Tinh thần công thể đi với Cây và Chim

Tinh thần công thể đó lại đi với cây và chim.  Nếu xem thường, nhưng khi theo cơ cấu thì ta biết cây thuộc hành mộc nên văn minh nông nghiệp. Trong nền văn minh này đàn bà đóng vai trò quan trọng nếu không hơn thì chẳng kém đàn ông  điều đó nói lên tính chất mẫu hệ, mẫu tộc vốn gắn liền với văn minh nông nghiệp, mà ta có thể thấy trong cây Chu đồng ( Chu là bà Chu ). Riêng nước ta thì tính chất đó được biểu thị bằng Tiên, và trước nữa là chim.  Vì thế Chim và Tiên hay xuất hiện trong các huyền sử của ta.  Ðó là một nền văn hoá sẽ gặp đối thủ là du mục, biểu thị bằng Hành Thuỷ và Kim với hai số 1 và 4, nói lên tính chất phụ hệ, võ biền và hay đi với Hoa tộc ( Hoa tinh trong câu chuyện số 1 đã ăn thịt Lang đại ca ), nhưng được Lang- Ða- Cần nối tiếp. Lang-Ða-Cần có thể đại diện cho Nhân trong Tam tài, nàng Kịt là Ðịa, đại ca Kha là Thiên. Lang- Ða- Cần là tài Nhân.  Vì thế có tên Lang-Ða-Cần để nói lên triết lý “ tự cường tự lập bất tức ”.  Lang- Ða- Cần phải dùng 3 loại cỏ, một thứ 9 sợi, làm phép đánh nhau với Hoa tinh.  Ðó là nói lên tính chất biến dịch của triết lý Mẹ đi theo  số 3, 5, 9, nên cũng gọi là số hoá ngược với số phá của cha 4 – 1 (ông Tứ Tượng 14 cây sào). Ai nắm vững ý nghĩa các số Ngũ hành (xem Chữ Thời)  có thể đi sâu vào hơn như trong truyện sống, thì bà Chu có thể là Chu tri tức nền minh triết. Bà Chuông có thể là “ cồng bà ” chỉ quyền lực các bà trong thời Việt Nho.   9 em trai có thể là Cửu Lê, Cửu trù, Cửu Long với con số mẹ: nữ cửu.  8 anh em lập ra 4 họ có thể  là 8 trù quy ra 4 hành. Truyện số 9, Tây Bắc có thể chỉ văn minh Kim khí của Tây Bắc, cây rộng 14 thước thì cùng một con số với ông Tứ Tượng (văn minh du mục) 14 cây sào, 14 cũng có thể là 1 – 4  của Tây Bắc. Còn biết bao nhiêu yếu tố khác có thể tàng ẩn nhiều ý nghĩa. Nhưng để có thể khai quật ra chúng ta còn phải nghiên cứu nhiều, và vì thế chương sau chúng ta bàn về việc trang bị bằng những sở đắc của cơ cấu luận.

Việt Nhân, Tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc (Trích)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...