VIỆT NAM VĂN HIẾN CHI BANG
Việt Nhân
Người
Tàu đã công nhận quốc gia ta danh hiệu : “ Việt Nam Văn hiến chi bang ”, ta thử
xem lời xưng tụng đó có cơ sở gì không hay chỉ là một lời mỉa mai không mang
một nội dung nào cả ?
Tiêu chuẩn của một văn hiến chi bang .
Ðể
xứng danh là một dân tộc thì phải có bộ sách dân tộc .
Thiếu
bộ sách dân tộc thì không thể có dân tộc trung thực, mà chỉ là một đoàn lũ sống
chung với nhau trên cùng một mảnh đất với những liên hệ chính trị, kinh tế,
binh bị. Phải có sách mới thực có yếu tố trường tồn làm như sợi dây nối các thế
hệ xưa với nay làm thành một thực thể thống nhất về tinh thần , có vậy mới là
dân tộc đích thực .
Sách
càng lớn thì dân tộc càng to, nhưng sách lớn không đo bằng số lượng mà bằng mức
độ tâm linh ẩn tàng trong sách làm như linh hồn sống động của dân, nghĩa là bao
nhiêu công việc quan trọng của con người trong nước đều được quy chiếu vào đó
như trung tâm. Tính chất tâm linh càng lớn lao thì dân tộc càng vĩ đại, vĩ đại
đến cấp siêu việt thì nước được gọi là có văn hiến hay Văn hiến chi bang .
Như
vậy muốn được gọi là văn hiến thì phải có những văn kiện cao quý, cao quý đến
độ khiến được các phần tử tinh anh trong dân hy hiến thân tâm mình cho cái văn
đó, những người này được gọi là Hy hiền, Hy thánh hay “Hiền nhân quân tử ”. Vậy
muốn nước được là Văn hiến chi bang thì nước phải có Văn và có Hiến ( Hiến tức
là Hiền )
Việt tộc có Bộ sách dân tộc không ?
Thưa
là : Không mà lại có :
-
Không vì chưa có văn tự riêng , không có chữ viết thì hẳn là không có sách .
-
Có là vì có Kinh vô tự tức là những văn kiện được biểu hiện bằng dăm ba bộ số ,
với một mớ huyền thoại và vô số tục ngữ ca dao .
Các
số này được gọi là huyền số , nó không dùng để đo đếm , nhưng để biểu thị cái
khác, vì thế chúng làm nên những tiêu điểm khách quan nhưng câm nín , nên cần
đến huyền thoại làm như những lời nói lên có ý nghĩa . Tuy không có chữ, nhưng
còn có truyền khẩu mà nội dung là huyền thoại, nên kể là có .
-
Những số đó ( huyền số ) có đủ giá trị chăng ?
Thưa
là quá đủ , vì đây là đang nói về giá trị văn hoá thuộc tinh thần , mà tinh
thần đi ngược với vật chất , .Với vật chất càng to càng hay , còn tinh thần
càng bé lại càng quý : bé cho đến số không thì quý vô cùng .
Vì
tất cả triết lý Ðông phương đều đặt trên số không : Ấn Ðộ là Thái Hư, Lão Tử là Cốc Thần ( hang trống ) Nho là vô thanh vô
xú , Việt là Trống ( trong chữ Trống Ðồng ) , muốn nói theo Nho thì đó là Hư
Tâm , Hư Linh , tức cái Tâm có trống rỗng thì đạt được linh thiêng .
Ðó
là bí quyết làm cho nước nên văn hiến tức là có nền văn hoá giàu chất tâm linh
.
-
Có bao nhiêu sách dân tộc và những sách nào ?
Sách
dân tộc Việt toàn là những kinh không có chữ chỉ biểu hiện bằng bộ số vài ba
.Sau khi đã nghiên cứu mới thấy bộ số đó quả là con chấm chủ quyền đã đóng vào
vô số văn kiện , điển chương, lược đồ, di vật, hiện vật, nên có thể nói đó là
bấy nhiêu sách dân tộc .Tuy nhiên con chấm đóng hẳn xuống đã biến dạng nhiều
cách nên khó nhận diện , chỉ sau khi đọc toàn bộ mới thấy rõ .
-
Sách có tên : Kinh Hữu tự
Ở
đây xin kể tạm vài ba quyển thôi :
a.-
Sách Ước , gậy Thẩn của Hùng vương .
b
.- Sách Tản Viên , Ba Vì.
c
.- Lạc Thư
2
.- Sách không tên : Kinh Vô tự
Sách
không tên thi vô số , như: Cái Trống, cái Ðình, cái nhà sàn, cái giếng và vô số
vật dụng khác đếu hàm tàng các số 2 , 3 đôi khi cả 5, 9 nữa .
Cũng
phải kể đến Huyền thoại mà nét đặc trưng là vắn tắt hết sức chỉ một vài dòng
như chuyện “Nữ thần Mộc dạy anh em Lộ
Bàn, Lộ Bộc biết làm nhà chữ Ðinh”, vắn tắt như thế nhưng ý nghĩa lại bao
la vô tận . Quả đúng như câu châm ngôn triết : “ nội hàm càng nhỏ ngoại hàm
càng to” . Nội hàm rút vào cùng cực thì toả ra cũng cùng cực . Nội hàm rút vào
còn có một chữ Trống thì toả ta muôn vàn .
Trong
các Kinh Vô tự , phải kể đến Kinh Dịch .Nó có một địa vị đặc biệt ở chỗ có chân
trên cả hai bình diện Văn và Tự, tức là không có chữ mà chỉ có số, vì thế gọi
là văn, vừa có chữ , nên gọi là tự ( tức là các hệ từ ) .
Truy
tầm theo lối sinh thành thí thấy Kinh Dịch có 5 giai đoạn ( theo Tam phần thư )
:
a
.- Giai đoạn I .-Dịch thiên nhiên hay Ðạo Dịch của Trời Ðất
Tức
hồn Dịch gặp được trong các huyền thoại đầy chất Lưỡng Hợp như truyện Ông Cồ Bà
Cộc , núi sông, nước lửa, Tiên Rồng . . .
b
.-Giai đoạn II .- Của Phục Hy
Thành
bởi nét đứt ( - - ) nét liền (― )ghép thành 8 quẻ đơn , mỗi quẻ có 3 nét . Ðó
là bộ số 2 , 3 , 5 .
c
.- Giai đoạn III .- Của Ông Ðại Vũ đúc 9 đỉnh ,
Tức
là thêm vào vòng trong 5 số sinh 4 số thành nữa là 9 , cũng gọi là Cửu Lạc ( số
9 của dân Lạc ) .
d
.- Giai đoạn IV .- Dịch của Văn Vương
Bắt
đầu có văn tự , đó là những lời giải nghĩa 64 quẻ gọi là Hào từ .
e
.- Giai đoạn V .- Khổng Tử có thêm Thập Dực
Nổi
nhất trong đó là hệ từ đại truyện có giá trị triết lý siêu hình .
Xưa
nay người ta chỉ biết có giai đoạn IV và hầu hết nó đã trở thành sách bói toán
và tán nhảm .
Giai
đoạn V được chú ý chút ít . Chí như 3 giai đoạn trước thì hầu như không có ai
nói gì tới và đấy là chỗ cắt nghĩa sự sa đoạ của Nho là vì Ðạo là cái gì linh
thiêng siêu việt không thể dùng ngôn từ hữu hạn mà nói được , “ nói được thì
không phải Ðạo thường hằng nữa ” , mà chỉ là Ðạo phù phiếm thuộc xã hội .Vì thế
“ Tri giả bất ngôn ” người biết Ðạo không
nói mà chỉ dùng một hai dấu hiệu , vài ba con số để chỉ thị rồi yên lặng .
Ðó là lý do tại sao các đạo lý Ðông phương quý chữ Trống
rổng , Hư tâm, Vô thể . Vì thế Kinh Dịch khởi đầu chỉ có số 2 và 3 , đến sau
mới thêm lời vào. Vậy mà các thế hệ sau lại chú ý nhiều về lời thành ra chỉ
chuyên ngành mà bỏ gốc. Nay muốn tìm lại Ðạo Uyên Nguyên thì phải học về các số
trong Kinh Dịch .
3.-Ý
nghĩa các Huyền số .
Muốn
tìm ý nghĩa các số ta hảy căn cứ trên Kinh Dịch . Kinh Dịch chia các số theo
những lối cần phải biết để sau đoán ý .
a.-
Số Ðất : chỉ bằng các số chẵn là 2 , 4 , 6 , 8, nếu vẽ ra hình sẽ là nét ngang
— hoặc hình vuông □ .
b.
Số Trời :chỉ bằng các số lẻ 1 , 3 , 5 , 7 , 9 . Vẽ ra là hình nét dọc│hoặc hình
tròn ○ .
c
.- Vòng trong, vòng ngoài.
Các
số trên đưọc chia ra vòng trong và vòng ngoài :
Vòng
trong ( xếp theo ngũ hành ) : gồm 5 số từ 1 – 5 , được gọi là số sinh .
2
3 5
4
1
Vòng
ngoài : gồm 4 số từ 6 – 9 , được gọi là số thành.
7
2
83549
1
6
(
5+1=6 ;5+2=7;5+3=8 ;5+4=9: Số thành ) Văn hoá nào có nhiều số 4 là thiên vể Ðịa
, có thể gọi là Duy vật với hình ngang hay vuông.
Chính
trị đặt trên mẫu du mục : có giai cấp , liên hệ người là chủ nô .
Còn thiên về số 1 là nghiêng về Thiên có thể gọi là duy
tâm linh , hình là nét dọc hay tròn .
Ðây
chỉ là sự phân loại tiên thiên chưa được áp dụng .
Ðó
sẽ là việc được bàn trong toàn sách, chỉ cần nói rằng trong thực tế văn hoá nào
cũng có rất nhiều sửa sai nên nó làm cho khó nhận diện .
Lại
theo luật hai Thái cực ở liền ngõ ( les extrêmes se touchent ) , nên văn hoá ưa
dùng số 4 cũng dùng số 1 ( nguyên lý đồng nhất ) , còn văn hoá ưa dùng số 1
cũng lại dùng số Ðất như số 4 . Vì thế có những bộ số; 1 – 4 hay4 – 1 .
Việt
Nho thì dùng bộ số 2 - 3 . Việt nói vài ba ( 2 – 3 ) ; Tàu nói tham lưỡng ( 3 –
2 ) . Hai số cộng với nhau thành 5 , số Ngũ hành .
Ðó
là bộ số chỉ trỏ sự quân bình vũ trụ : Trời 3 , Ðất 2 . Vẽ ra là hình Thập tự
nhai┼ gồm nét ngang là 2 Ðất, cộng với nét dọc là 3 Trời thành ngũ hành là số
5. Hoặc cùng vẽ là hình tức là
tròn
trên vuông hay tròn bao lấy vuông .
Xã
hội theo quy chế Bình sản không có chế độ nô lệ. Hỏi ai là chủ bộ số 2 – 3 này
trước thì đó là Việt. Vì cả khảo cổ ( nét song trùng ) lẫn huyền thoại ( Tiên ,
Rồng ) đều nói lên điều đó . Ðây chì nói có số 2 , vì nó là đầu mối cho các số
nền tảng sau :
Thí
dụ: Số 3= 1 +2
Số
5= 2 + 3
Số
9= 5 + 4
Các
bộ số cứ đi đôi ( 2 ) như vậy vừa căn bản lại vừa đặc trưng để nhận diện .
Trong
thực tế thì phải nói cả Việt lẫn Tàu đều là chủ .Việt chủ ở đợt số sinh gọi là
văn hoá ; Tàu chủ ở đợt số thành gọi là văn minh . Nói khác đi Việt thai nghén
ra những tượng ý , thí dụ bánh dày bánh chưng . Còn Tàu thì hoàn chỉnh tượng ý
đó bằng đổ khuôn lời gọi là công thức hoá bánh dày bánh chưng Việt trở thành
câu“ Thiên viên địa phương ” của Nho . Còn rắn với thuồng luồng của Việt trở
thành con long của tàu , nhà sàn trở thành Tam tài .Do đó mà đặt thứ tự Việt
Nho tức là Việt trước Nho ( khi hiểu Nho là Tàu ) .
Ðây
là vấn đề rắc rối sẽ phải nhờ đến sự trợ lực của các khoa Tân nhân văn như khảo
cổ, dân tộc học, cổ sử để phân xử . Ðể đi đến hệ quả là muốn tìm ra đâu là Nho
trung thực tức là Nho chưa xa lìa số sinh của nó thì phải kể đến yếu tố Việt .
Nói cụ thể là phải kể đến huyền thoại và huyền số nữa , nếu không dễ trật đường
.
Trên
đây ta đã nói bộ số nền tảng của Việt Nho là vài ba.
Sau
đây là vài thí dụ đi trật đường:
1
.- Trong thời gian thai nghén văn tự thời còn là chữ chân chim (điểu tích tự )
hay chữ con quăng ( khoa đẩu ) thì số 2 Ðất được biểu thị bằng 2 nét ngang 二 , còn số 3 Trời được biểu thị bằng 3 gạch thẳng 〣 , cả hai hợp lại thành chữ kỳ ( căn = radial ) : 示 ( 5 nét ) .Vì hai bộ số này là linh thiêng nên dùng
căn kỳ đi với các chữ gì thì linh thiêng như :
Chữ
tế: 祭 Chữ lễ: 禮 Chữ thần : 神
Chữ
thiền : 禪 Chữ kỳ : 祈 ..
Nhưng
về sau người ta quen viết tháo ( chữ viết cho nhanh )thì chữ kỳ chỉ còn 4 nét(礻).Vậy là sa đoạ ra số Ðất lúc nào rồi mà không một ai
ý thức điều đó.
2
.- Hủ Nho bỏ số sinh mà chuyên nhiều về số thành là bát quái và 64 quẻ . Do thế
Nho là một đạo quân bình siêu đẳng đi lần vào chỗ suy vi bị bẻ quặt . Nay muốn
tìm ra mối Ðạo Uyên nguyên , thì đó là cả một công trình bao la đòi phải có sự
đóng góp nhiều ngành chuyên môn .
Về
phía triết chúng tôi cố gắng tìm lại phần nào bằng chú tâm đến bộ số “ vài ba,
tham lưỡng ” như ( 2 – 3 )và( 5 – 9 ) .Cái bí quyết thành “ Văn hoá chi bang
”nằm trong mấy con huyền số nọ . Nói khác đi đây là nhằm khai quật phần tâm
linh trong nền văn hoá nước nhà.
Riêng
về Tàu và Việt khi nói tới Việt Nho thì chỉ xin hiểu là 2 thực thể hoàn toàn
văn hóa, xin gảy ra ngoài mọi suy luận thuộc chủng tộc hay chính trị , để chỉ
chú ý đến văn hoá mà thôi. Theo đó, thì Việt chỉ tất cả các dân đã cư ngụ trong
nước Tàu trước khi có dân tộc Tàu, Việt Nam chỉ là một chi trong cái khối
lớn lao đó. Có chăng Việt là chi được coi như kế thừa nền văn hoá của khối Ðại
Việt , đối với Tàu xuất hiện về sau . Cả hai nơi đều tổ chức xã hội theo mẫu nông
nghiệp, Việt thì còn giữ nguyên chất nhiều hơn , hãy tạm gọi là 9 nông 1 du ,
còn Tàu thì 6 nông 4 du. Do đó có một số nét khác biệt làm cho Tàu nói chung
không quân bình bằng Việt. Thí dụ về vật biểu Tàu chỉ có Rồng , đang khi Việt
có cả Rồng lẫn Tiên , nhân đó Việt trọng bên tả, nổi về văn hoá tinh thần, Tàu
trọng bên hữu nổi về văn minh ( vật chất ). Còn rất nhiều chi tiết sẽ đề cập
sau .
Theo
( Hùng Việt sử ca : Kim Ðịnh )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét