Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Phương Pháp Thống Kê

THỐNG KÊ TIÊU CHÍ NỘI DUNG VĂN HÓA

1. - Nhân chủ.
2. - Dân chủ.
3. - Bình quyền mọi người.
4. - Bình quyền nam nữ.
5. - Bình quân tình lý.
Cơ cấu gồm các số sau:
6. - Nhất= Thái cực.
7. - Nhị=Lưỡng nghi.
8. - Tam= Tam tài.
9. - Ngũ= Ngũ hành.
10. - Cửu= Cửu nữ.
Thế  là có 10 mục mẫu. Tất nhiên có thêm được nhiều nhưng  lấy 10 cho gọn. Mỗi đề cho  tối đa 10 điểm cộng cả  là 100 điểm, 50 điểm  là  trung bình, đỗ hạng  thứ; 60 bình thứ, 70 ưu… Vậy bây giờ chúng ta đi vào chi tiết.
1. Điểm nhất là Dân chủ/Nhân chủ
Nhân chủ là khi xem con người đứng độc lập với trời và đất và tự làm chủ lấy bản thân mình, nghĩa là những thể thái sinh động giao liên được căn cứ trên bản tính con người hơn là trên những qui luật phát xuất tự trời hay đất. Và đó là thái độ độc  lập căn bản  làm nên nhân chủ  tính, đưa  lại cho con người qui chế vương giả, đường hoàng trong cõi riêng của mình. Nhưng độc lập mà không cô lập vì vẫn giữ liên hệ với trời với đất, bởi vậy gọi là nền nhân bản thái hòa. Nó khác với duy thiên là đi hẳn với  trời  (bái vật)  cũng như duy địa đi hẳn với đất  (duy vật) mà còn khác cả  duy nhân  nữa, vì  thuyết  này  đối  lập  với  trời  cùng  đất,  coi  người  là  trung  tâm  duy  nhất.
Ngược lại nhân chủ của Việt nho đứng trong thể tam tài tức có liên hệ mật thiết với trời cùng đất. Vậy phải gọi là nhân chủ, mà lý tưởng là phụng sự con người khi sống cũng như lúc chết, và do đó mà có lễ gia tiên kể được như biểu hiệu của nhân chủ tính, nên gia  tiên chỉ có ở những nơi nào có nhân chủ  tính. Đó  là nét đặc  trưng của Lạc Việt y như  tam  tài  cũng  là nét đặc  trưng  vì nó đặt  con người ngang hàng  cùng  trời đất. Vì trong đó con người được  tự do không phải nô  lệ cho ý hệ nào. Không có chuyện giết người haybắt người hi sinh cho những tư tưởng Tàu còn chôn người theo kẻ chết chứ Việt Nam  thì không. Bách Việt cũng giống như  tất cả mọi chủng  tộc, ban đầu cũng đi qua bái vật: hi sinh người cho thần minh như giết người tế thần, nhưng rồi Việt bỏ tục man rợ đó trước Tàu, vì mãi  tới  thời Chiến Quốc mà Tàu còn giữ  tục dã man đó. Vậy thì nhân chủ tính nên quy cho Hán hay Việt? Hán nho xét như là du mục nơi nhà cai trị quen xem bị trị như kiểu đoàn vật, thì không thể nào chịu để cho nảy sinh óc nhân chủ: sợ sẽ khó bảo. Vì thế mà tôi cho nhân chủ là của Lạc Việt đến 80%. Bây giờ bàn đến
dân quyền.
2. Dân quyền/Nhân quyền
Đây là hệ quả của nhân chủ. Vì hễ đã là nhân chủ chân thực thì quyền bính được đặt trong tay nhân quyền nghĩa là ai nhân đức nhất tức thực hiện được nhân tính nhất thì nắm quyền bính. Đây là nói lý thuyết mà không kể hiện thực ít khi đạt. Tuy nhiên vẫn đáng nói vì có tiến trên lý thuyết rồi mới tiến được trên thực hiện. Lý thuyết là tiền hô nên thắng trên lý thuyết cũng là chuyện rất căm go phải cả từng ngàn năm mới đạt. Vậy dấu hiệu của dân quyền chân thực là trong xã hội không còn thiên quyền địa quyền. Thiên quyền là thần quyền, theo cái nghĩa là có hàng tăng lữ nắm chính quyền hay ra  lệnh cho những người nắm chính quyền như  trong xã hội Âu Ấn  thời Trung cổ vua phải  tuân  lệnh quyền đạo. Còn địa quyền  là những  thế  lực  tài chính như bên Âu Châu sau cách mạng 1789 cho tới ngày nay. Cả hai thời đó chưa có dân quyền. Cái gọi là dân quyền ngày nay chỉ  là hình  thức,  trong  thực  trạng  là các  thế  lực kim  tiền nắm trọn. Về điểm này thì Việt Nam vẫn hơn Tàu, thí dụ xã thôn Việt Nam dân chủ hơn hẳn xã thôn Tàu* cũng như lễ gia tiên không bao giờ dành cho quý tộc như bên Tàu. Đằng khác bên Tàu pháp gia (thương gia) đã ảnh hưởng khá mạnh vào chính quyền. Tức là để cho  thế quyền  (địa) nắm chính quyền mà không còn  là nhân quyền. Vì  thế ở điều
này ta cũng có thể quy cho Việt Nam đến 70%.
-----------
* Về điểm này nên đọc quyển Việt Nam sociologie d’une guerre có  thể nói  toàn quyển đặt nền trên cái làng Việt Nam. Nhất là những trang 280. Tây cố phá làng Việt Nam ra sao… trang 330.
3. Bình quyền
Là hết mọi người đều được hưởng quyền  lợi như nhau: cùng ăn cùng chịu, không có đặc ân đặc quyền. Bởi vì nhân chủ coi mọi người đều là người nên mọi người đều được quyền  lợi như nhau. Vì  thế không có đặc quyền  làm người dành cho một thiểu số, ngoại giả là nô lệ. Cũng không có đặc quyền tài sản dẫn đến tư sản tuyệt  đối, nhưng ai cũng được tham dự vào tài sản chung gọi là bình sản. Về điểm này tuy tôi chưa để  tâm nghiên cứu  tỉ mỉ, nhưng có  thể nói chung  là Việt Nam  trội vượt hơn bên Tàu. Bên Tàu không kể đến những triều ngoại quốc như Mông Cổ thì tài sản tích luỹ lại quá nhiều trong tay triều đại và thân thích, đến như những nhà bổn quốc thì sự chênh lệch cũng đầy. Tôi đọc thấy chẳng hạn đời Tống ruộng công chỉ còn 4% so với bên ta năm 1940 còn được đến 20% (tất cả những chi  tiết này xin dành  lại cho những người đang đi tìm đề tài luận án cao học hay tiến sỹ…) vậy điểm này có thể quy cho Việt Nam ít ra 60%.
4. Bình quyền nam nữ
Điều này chỉ là hệ luận của điểm 3. Nhưng vì địa vị đàn bà có một nét biểu  tượng  rõ  ràng hơn nên chúng  ta để  riêng  ra một số. Nói chung  từ  trước đến nay đàn bà ở đâu cũng bị lép vế, và mãi tận ngày nay vẫn còn phải có những mặt trận  tranh đấu cho nữ quyền. Nhìn  trong chiều hướng chung đó  ta có  thể nói ở Việt Nam thì tương đối đàn bà được tự do tuy sau bị ảnh hưởng Hán nho có sứt mẻ nhiều nhưng nói chung đàn bà vẫn  tự do hơn bên Tàu, đến nỗi có những học giả cho  rằng điểm duy nhất Việt Nam nổi vượt không những hơn Tây mà còn hơn cả Tàu  là địa vị đàn bà ngang hàng với đàn ông. La Femme Annamite P: 16 Lustéguy). Không nên nói rằng xưa kia đâu đâu cũng như vậy, vì lúc ấy kể như chưa có văn hóa. Có văn hóa tự lúc con người can thiệp sắp xếp sao đó, và tự lúc ấy thì ta thấy rõ  là có sự khác nhau giữa Tàu và ta mãi tự xa xưa rồi. Mãi tự đó ta đã thấy phụ nữ Việt Nam nắm quyền tư tế  (các bà đồng) hay  ít nữa  là đồng  tế  trong  lễ gia  tiên. Về  tài sản  tuy chồng  làm chủ nhưng đó là tự nhiên, trong nhà một chủ mới ổn, người đó tất nhiên là chồng nhưng khi chồng chết thì đến lượt vợ, chứ không có chuyện bà góa không được quyền hành chi trên tài sản như bên Tây phương. Có người xin tha cho thuyết “văn minh cồng gặp văn minh  lệnh” nhưng  tôi có nói gì khác hơn  là đưa  ra một số quyền  lợi mà phụ nữ Viễn
Đông vẫn giữ được  trội vượt hơn hai nền văn minh Âu Ấn? Và cả bên Tàu nơi người chồng xem vợ con như nô lệ? Vì thế điểm này tôi cho Lạc Việt 70%           
5. Quân bình tình lý
Hay nói khác  là văn võ song hành. Văn đi với  tình người, võ đi với  lý sự. Tôi  thích nhìn bên chiêu  là biểu  thị  tình người vì đi về  tay  trái  là bên có  trái tim, nên  là bên  tâm  linh, còn bên mục  là  tay mặt  là sức mạnh. Đại khái  thuyết chiêu mục chỉ nói có  thế không hiểu vì  lý do nào có người muốn bác đi mà vẫn đồng  thời công nhận “tả nhậm” là nét đặc trưng của Lạc Việt, đang khi người Tàu nhiều thời trọng bên mục: nhà Thương, Chu, Tần… Còn chuyện người Tàu nặng lý trí, còn tâm tình cằn cỗi thì hiển nhiên. Vì thế nhiều khi chiêu được coi trọng như mục hay có khi còn hơn thì là biểu thị cho vị trí tình vẫn được duy trì cân đối với lý làm nên nét đặc trưng là tình lý tương tham và tôi cho là sự quân bình nay thuộc Viêm Việt đến 80%.
Bây  giờ  bàn  đến  cơ  cấu  tức  là  cái  khuôn  tiên  thiên  dùng  để  diễn  tả  những  ý  tưởng chính. Đó  là những  lược đồ, những biểu  tượng như  tròn vuông, kinh vĩ v. v… hay  là những huyền số. Có tất cả 10 số trong đó quan trọng hơn cả là 1, 2, 3, 5 ,9. Ta sẽ lần lượt bàn:
6. Số một
Trong  cổ  sử  Tàu  có  hai  lối  biểu  thị  con  số  quan  trọng  này  là  vòng  tròn phẳng, đôi khi có  lỗ ở giữa, hai vòng  tròn gắn  liền với âm dương và gọi  là vòng  thái nhất. Về vòng một không có gì đáng nói lắm vì là của chung nhân loại đâu đâu cũng có và câu nói Thượng Đế  là một vòng  tròn  là  thí dụ  (xem bài Thái cực  trong chữ Thời).
Vậy  thì điều đáng chú ý ở đây  là cái  thái nhất hay vòng  thái cực mà cũng gọi  là nhất nguyên  lưỡng cực được dùng  tới nhiều nhất và được coi  là đặc  trưng của Viễn Đông và tôi cho là thuộc Bách Việt đến 80% như sẽ bàn rõ hơn ở số 2 sau, vì một đàng thích nghi với tiềm thể gọi là âm, một đàng thích nghi với xuất lộ gọi là dương. Đó là hai mối thích nghi bao quát, không bao giờ được  li  lìa, bởi đó  là đạo. Kinh dịch viết  “nhất âm nhất dương chi vi đạo”. Câu ấy nói lên sự bao quát của đạo cả âm lẫn dương. Cả trời cả đất cùng với người làm nên nhất thể. Có lẽ đây là chỗ phải nói đến mái nhà cong và thuyền cong mũi của Lạc Việt thì hầu chắc là do ảnh hưởng này, bởi xét về đàng thực tế  thì mái cong nóc oằn  thật  là vô  ích. Vì không phải để  tránh  tuyết. Người Tàu còn ở mạn Bắc hơn nghĩa là gần tuyết hơn vậy mà góc mái nhà của họ lại thẳng, cho nên góc mái cong nóc oằn chỉ có thể do triết. Vì mái cong là của Lạc Việt nên tôi cho vòng thái nhất là của Lạc Việt đến 80%.
7. Số hai
Trên  kia mới  là  vài dấu bên ngoài,  cái nét đi đôi nền  tảng hơn hết  là âm dương. Hai nét này tôi cho là của Lạc Việt đã được kiểu thức hóa từ đạo phong nhiêu mà nghi lễ căn bản là các bà tư tế xin mời trời giao hợp với. Do đó sau này gọi là lễ tế giao đã được  lý  tưởng hóa; còn nguồn gốc  là sự giao hợp được biểu  thị  trong hai nét âm  dương, một  cơ một  ngẫu. Các nhà  nghiên cứu Âu Mỹ  đầu  tiên cứ bị ám ảnh vì chuyện này và cho rằng âm dương chỉ là đạo phong nhiêu tức là cơ quan sinh dục trá hình. Tôi cho đúng như thế, nhưng không là trá hình mà là được kiểu thức hóa để theo nhịp tiến của con người. Những bức chạm trổ hình bà Nữ Oa và Phục Hi cuốn lấy đuôi nhau có thể được xem như những khoen trung gian. Còn chặng đầu thì dấu cụ thể như hai thần Nam Nữ ôm nhau trong thể giao hợp gặp đầy bên Tây Tạng, hay trong những tượng rời nhận  thấy  trên những bình đồng đào được ở Đào Thịnh (Lao Kay) có 4 đôi nam nữ giao hợp. Rồi  tiến đến đợt nhì  là hình Nữ Oa Phục Hi quấn  lấy đuôi nhau; ở đây đuôi thay cho cơ quan sinh dục. Chặng cuối cùng sẽ là một nét âm đứt với một nét dương  liền nên âm dương chính  là  tiếp nối đạo phong nhiêu. Vậy mà  tôn giáo phong nhiêu (fécondité)  là nét đặc  trưng của Viêm-Việt nên  tôi cho số hai  là  thuộc Việt đến
90%. Có hai số sinh chỉ đất  là 2 và 4. Xem ra Lạc Việt chú  trọngđặc biệt số 2 như có thể thấy những liên hệ ngầm nào đó với số 2, được kể như đạo (nhất âm nhất dương chi vi đạo) mà đã là đạo thì không thể li lìa dù một giây. Vì thế sử mệnh đã trao vào tay Lạc Việt con số hai để biểu lộ ra trong những việc căn bản hơn hết của con người là ở, ăn, nói. Ở là nhà nóc oằn mái cong (cong do ảnh hưởng lưỡng nghi). Ăn là đôi đũa… Nói  là  thích  dùng  nhị  âm:  như  chiếu  chăn, non  nước,  chợ  búa,  viết  lách,  quan  kiếc. Người Tàu độc âm. Làm thì có thể biểu  thị bằng  “Tị dực điểu” sách nhĩ nhã nói phương Nam có  loài chim liền cánh không bao giờ bay mà không  liền cánh, gọi  là kiêm kiêm. Đó là điều biểu  thị cho mọi việc làm đều có lưỡng tính.
Vì thế số hai thuộc Lạc Việt đến 90% và do đó Lạc là chủ Kinh dịch một quyển kinh xây trọn vẹn trên hai biểu tượng âm dương.
8. Tam tài
Đây là hệ quả của hai nét trước, nó làm nền móng cho nhân bản, cũng gọi là nhân chủ. Đó  là điều  tôi khám phá  thấy  trong Nho giáo, một nền nhân bản  tâm  linh trung thực nhất, vì được xây trên nền siêu hính là tam tài. Và chính vì thế mà tôi chú ý đến số 3 lâu trước khi chú ý đến câu “tham thiên” trong kinh Dịch, với hai hướng Đông Nam. Có người cho rằng: sở dĩ hai hướng Đông Nam cũng như hai số 3, 2 được quan trọng vì đó là hai hướng người Tàu thấy mầm ăn được nên coi trọng chứ chẳng có triết lý nào hết. Đó  là nói phỏng  chừng. Xưa nay  rất nhiều dân đã  thiên di  tự Bắc  xuống Nam, tự Tây sang Đông mà sao lại chỉ có văn hóa Tầu mới quan trọng hóa hai hướng đó  thì không  thể quyết đoán suông kiểu duy vật,  tức  là do việc  làm ăn được, mà phải giải nghĩa theo lối tâm linh, vì đó là bầu khí văn hóa với hệ thống các con trong đó có số ngũ  hành,  hồng  phạm,  cửu  trù, cũng như thuyết địa lý, phong thủy, coi hướng, coi giờ… có thể là những biến thể của một niềm tin nào đó. Niềm tin đó chính nền tảng đã được hệ thống và kiểu thức hóa như thấy rõ trong nguyệt lệnh: phương Đông đi với số 3, màu  xanh  v.v…  thì  không  còn  là một  sự  tin  thường mà  là một  nền  triết  lý  tức  đã
được những phần tử sáng suốt nhất trong dân nước chấp nhận, phát huy và hệ thống hóa. Vì thế mà tôi cho là của Lạc Việt đến 80%.
9. Số ngũ
Bây giờ đến số 5 thì rõ rệt đây là con số nổi của Đông Nam; của văn minh mẹ. Tuy đâu cũng có dùng biểu hiệu số 5 nhưng không đâu nó được quan  trọng hóa như ở vùng Lạc Việt. Vì ngự ở trung cung của ngũ hành và do đó trở nên then chốt cho nguyệt lệnh rồi Hồng Phạm, Cửu Trù là cái lý tưởng uyên nguyên của Lạc Thư. Vì thế mà ta có thể gặp lu bù số 5 ở phía Nam hơn ở phía Bắc: ngũ lĩnh, ngũ khê, ngũ hồ, ngũ cốc, ngũ âm…  tất cả đều phát xuất  tự ngũ hành. Thế mà  riêng ở Viễn Đông  thì ngũ hành xuất hiện trước hết ởmiền Đông và Kinh Việt (xem Need II 244, 246, 355), rồi sau người Tàu mượn. Mượn  từ  lúc nào? Chắc không phải  thời nhà Chu mà  ít  ra ngay từ đời nhà Hạ “Lúc trời ban cho Hạ vũ Lạc thư” (Xem bài Qui lịch và Ngũ hành trong Chữ thời). Còn có thể kể ra phận dã nước Việt có sao tỉnh là nguyên ủy khung Lạc thư, vì thế mà tôi cho Lạc thư chính là điền chương của dân Lạc Việt và số 5 thuộc Lạc Việt đến 80%.
10. Số cửu
Đây  là con số hơi khó nói vì nhiều nới xài, như Mông Cổ v.v…tuy nhiên xem gần ta nhận ra một sự khác biệt là nó được Lạc Việt chú ý đặc biệt bằng hệ thống hóa: như tự Tam miêu lên ngũ hành rồi cửu Lê và tự nhân lên thành 81 chi hội của Si Vưu (9 x 9) thì đó là dấu rõ của việc hệ thống hóa mấy số trên. Còn Hiên viên tù trưởng của Hoa tộc khi đầu chia nước thành 6 châu thì cũng không là 6 châu mà hầu chắc chỉ tâm hồn hướng theo lối du mục ưa số chẵn là số biểu thị triết học vòng ngoài chạy theo lưu  tục  (một chiều)  thường  là của phương Bắc được ám chỉ  trong câu  “con sông  lục đẩu sáu khúc nước chảy một chiều anh ơi”  tuy sau Hoàng Đế có dùng số 9 nhưng  là sau khi thắng Si Vưu mới dùng và cũng chỉ dùng phất phơ, còn cách triệt để thì phải kể từ ông Hạ Vũ, đến nỗi người ta cho văn minh Tàu có tự lúc biết xây nhà, có thế tập và chia nước  làm 9 châu. Vì  thế nước Tàu kể  là có nhà vua cũng như Kế  tập  tự ông Hạ Vũ. Tuy nhiên đó chỉ là huyền sử tức không có thực mà chỉ có thật nghĩa là có như một lý tưởng tiên thiên.Vì thế bản đồ cửu châu hình học theo kiểu Lạc thư phải vẽ theo hình Lạc  thư mới  đúng  ý  nghĩa  thâm  sâu  của  nó. Đón  xem  bài  “Vũ  chú  cửu  đỉnh”  trong
quyển  “Cơ cấu Việt nho”. Thiên đó nói về đào sâu sông  thì  ít mà đào sâu  triết  (tuấn triết) thì nhiều. Triết nào? Thưa là nền triết tàng ẩn trong Hồng Phạm của Lạc Thư, diễn bằng các số 2, 3, 5 ,9, v.v… và như thế tôi có quá đủ lý do mà bảo số 9 thuộc Viêm Việt đến 70%. 

Kết.
Thế  là  tạm xong cuộc  “đo chỉ số văn hóa”  ta hãy  tóm  lại một bảng để nhìn bao
xem mỗi điểm Viêm Việt được bao nhiêu:
A.1. Nhân chủ được 80% ………………………. hay là 8 điểm
2. Dân quyền được 70%...................................... hay là 7 điểm
3. Bình quyền được 60% ……………………….. hay là 6 điểm
4. Bình quyền nam nữ được 70%......................... hay là 7 điểm
5. Tình lý tương tham được 90%.......................... hay là 9 điểm
B.6. Thái nhất được 80% ……………………….. hay là 8 điểm
7. Lưỡng nghi được 90% …………………….. ... hay là 9 điểm
8. Tam tài được 70% ………………………….... hay là 7 điểm 
9. Ngũ hành được 80% ………………………..... hay là 8 điểm
10. Cửu lê được 70% …………………………… hay là 7 điểm
                                                                                  ____
                                                                                    72
Tổng số  là 72 vo  tròn  lại  là 70. Có nhiều số cho điểm còn quá ngặt. Chẳng hạn mục Tam tài lẽ ra phải cho đến 8, 9 điểm, vậy mà lại được có 7 thì hơi oan cho Viêm Việt.
Nhưng việc cho điểm số rất dễ chủ quan. Mỗi độc giả thử cho điểm lấy xem sao. Riêng phần tôi muốn cho điểm hơi ngặt là cốt để ăn chắc.

Bây giờ ta đi đến kết luận, thường thì chỉ cần 50 điểm đã đỗ, tức đã đủ lý do lập ra một giả  thuyết, vậy mà đây đạt 72  thì kể  là ưu hạng,  tức giả  thuyết có đủ nền  tảng để  lên bậc chủ  thuyết:  rằng  trong Nho giáo sơ khai người Lạc Việt đã đóng góp  lối quá bán phần vậy. 

Kim Định

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...