Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Phương Pháp

LÝ LUẬN CƠ BẢN HUYỀN SỬ & DUY SỬ

Thời kỳ xuất hiện của huyền sử

Trong thời kỳ duy lý người ta cho rằng thần thoại xuất hiện vào lúc con người còn cổ sơ thô lỗ, nhưng đến nay các nhà nghiên cứu đều cho rằng thần thoại xuất hiện vào thời đầu của nền văn hóa lớn vào lúc tâm trạng con người mới thức giấc khỏi trạng thái bất phân và thần thoại là tác động sáng tạo đầu tiên của nó (Déclin 381). Vì thế đó là một tác động làm bằng cảm xúc và sống thực hơn là suy tư hay là được công thức hóa (le mythe est senti et vécu avant d’être intelligible et fomulé, Mythe 11) vì thế ta có thể phân tích nội dung của câu
chuyện đặng ước đoán thời xuất hiện của nó. Nếu căn cứ theo lối phân đường vận hành của tâm thức con người làm ba đợt là bái vật, ý hệ và tâm linh, thì ta có thể đặt thần thoại giữa bái vật và ý hệ vì đó là thời con người rất yếu hèn, hoặc thời ma thuật đã biết ăn trộm chút quyền hành. Còn thời huyền sử thì con người đã ung dung tự tại nên chỉ còn bên dưới có đợt tâm linh, tức lúc không cần dùng đến biểu tượng nào nữa. Thí dụ khỏi cần dùng cơ cấu Ngũ Hành với ngũ hoàng cực mà chỉ với hai chữ chí thành là tóm thâu được tinh hoa của Thần thoại cũng như Nhân thoại. Đấy là chỗ cùng cực. Chính Việt Nho đã đi qua thời
Thần thoại, nhưng đi qua bằng vượt qua, còn ở Tây phương đi qua bằng gảy bỏ. Vượt qua thần thoại bao hàm sự thâu thái tinh hoa của thần thoại, còn gảy bỏ là nhị nguyên: chọn một bỏ một, chọn lý trí bỏ thần thoại. Chính vì thế mà hiện nay đang có một cuộc quật ngược để trở lại với thần thoại.

Hiện trạng vấn đề
Hiện nay ai đi vào làng văn học Tây Âu cũng nhận ngay thấy sự đề cao thần thoại, và sự học hỏi sưu tầm thật vĩ đại đến nỗi hầu không mấy khoa nhân văn là không bàn tới: từ triết học qua phân tâm đến cơ cấu luận, dân chủng học v.v… Vì hiện nay người Âu Châu khởi đầu nhận ra thần thoại chính là bảo tàng viện những giá trị nền tảng(Mythe 278) (1) “Le Mythe est le conservatoire des Valeurs fondamentales” nên là liều thuộc chữa chứng bệnh quá trừu tượng vì thần thoại là lối tư tưởng nhập thể chưa bị tách rời khỏi sự vật: lời nói còn bám sát sự vật. Le mythe est le pensée incarnée: non déprise de la chose, encore à
demi incarné. Le mot adhère à la chose. Vì thế mà trong dĩ vãng những dân hùng cường đều phải có thần thoại. Âu Tây hiện lấy làm khổ tâm vì thiếu vụ này (Gusdorf, Mythe 286). Nói đúng hơn là Âu Tây đã vứt bỏ thần thoại từ sau đời Socrate, và hiện nay vẫn còn đong đưa chưa biết chọn bên nào. Entre deux maux don’t on ne sait trop lequel est le moindre (Gusdorf, Mythe 237). Có bỏ thần thoại thì khoa học mới tiến bộ, mà bỏ thần thoại thì nước mất hồn, lịch sử cũng như văn hóa mất ý nhị (Mythe 247). Đó là gọng kìm đang kẹp tâm thức người Âu Tây và họ đang cố gắng thoát ra.
Riêng chúng ta nếu biết trở về nguồn gốc thì sẽ tìm ra lối thoát thứ ba không bỏ mà cũng không nhận nhưng vượt lên trên bằng nhân thoại. Và chính trong ý hướng đó mà chúng ta quay về khám phá kho tàng huyền sử của nước nhà. Bài này không có ý múc cạn vấn đề nhưng chỉ nhằm cắm mấy tiêu điểm để có thể y cứ trong việc nghiên cứu về sau. Đó là bốn chặng huyền sử nước Nam là Việt Hồng, Việt Long, Việt Ngư, Việt Tượng.

Việt Hồng
a. Khu vực
Theo những lý chứng âm u rút ra từ huyền sử thì ta có thể ước đoán địa vực thời Việt Hồng nằm trong miền Thục Sơn. Theo nhiều học giả hiện nay thì Thục Sơn là trung tâm đầu tiên của nền văn hóa Nho Việt. Điểm này hợp với điều đã nói trong Việt Lý Tố Nguyên (tr.53) là Miêu tộc vào Tàu trước nhất theo triền sông Dương Tử phát nguyên từ núi Dân Sơn trong miền Ba Thục, vì thế cần phải xem nó liên hệ với nước ta như thế nào, vì mối liên hệ có mật thiết thì Việt Nho mới có nền tảng, vậy theo huyền sử chúng ta nhận thấy ít ra ba lần liên hệ như sau:
Lần thứ nhất gắn liền với Toại Nhân thời biết dùng lửa. Toại Nhân cũng ở vùng Thục Sơn và huyền sử cho là ngài có xuống tới Nam Thùy mà các học giả đoán là Vân Nam và Bắc Việt. Trong thực chất có nghĩa là sự dùng lửa phát ra ở Thục Sơn rồi lan tràn xuống đến Việt Nam.
Lần thứ hai là lúc Đế Minh cháu ba đời Thần Nông tuần thú phương Nam lấy Vụ Tiên trên Ngũ Lĩnh, Thần Nông ký thuỷ cũng cư ngụ ở Thục Sơn hiểu là nghề nông đã được phát minh từ Thục Sơn rồi truyền bá xuống Việt Nam.
Lần thứ ba là An Dương Vương người Ba Thục dành lấy nước Văn Lang gồm vào một số đất đai cũ của mình và cải tên là Âu Lạc. Đó là đại để ba lần nhắc đến mối liên hệ giữa Thục Sơn và Việt Nam. Hễ cái gì phát minh ở Thục Sơn thì cũng truyền xuống đến Việt Nam liền: lửa, nông nghiệp, quân sự, văn hóa… Vì thế có thể nói văn hóa Thục Sơn với Việt Nam là một.
b. Nội dung
Giai đoạn đầu tiên khai sáng văn minh này gọi là Việt Điểu hoặc Hồng Bàng. Ở lúc đầu rất có thể điểu là vật tổ về sau tiến bộ thêm thì vật tổ biến ra vật biểu, tức làm biểu tượng cho tiên nên tiên đi đôi với chim, vì thế khi tu tiên đắc đạo cũng gọi là “mọc cánh”, chữ Nho kêu là Vũ hóa (chữ hán) nói kiểu bình dân là biến ra hạc trắng nên Bạch hạc được coi là chim cõi tiên.
Có thể giai đoạn này được manh nha ở thời Phục Hy và Nữ Oa, nhiều sách nói cả hai ông bà đều có họ Phong. Phong là núi ở của tiên và chim. Ta có thể ngờ rằng đã có mối liên hệ nào đó giữa giai đoạn Việt điểu này với những hình người giắt lông chim thấy được trên một số trống đồng, hoặc có liên hệ với Cửu Lê mà huyền sử nói là có cánh nhưng không biết bay, hoặc những thổ dân mang lông chim bên Mỹ Châu như Astèque là dân có những yếu tố văn minh chung với Viễn Đông như giao có hình chữ nhật và bán nguyệt (xem Việt lý tố nguyên tr.46). Khi sách nói: “Âu Cơ đưa 50 con lên núi Phong Châu ở Bạch Hạc” thì
nên hiểu theo huyền sử với ý nghĩa Phong Châu là núi còn Bạch Hạc là chim mà khỏi cần đưa trí khôn đến Phú Thọ. Phú Thọ chỉ là nét tuỳ phụ sau mượn tên trước. Trong Kinh Dịch quẻ Lữ nói đến lửa trên núi (hỏa sơn lữ) thì có thể hiểu vào giai đoạn Toại nhân này, cũng như lối làm ruộng đốt rẫy mà Lĩnh Nam gọi là “đào cành hoa nậu” (giáo sư Wiens dịch là Fire Field). Hầu chắc vì những mối liên hệ đó với lửa mà có tên nước là Xích Quỷ vì Xích thuộc lửa. Đây là giai đoạn đầu đi với những vật biểu như chim, núi, lửa. Sẽ tiến tới giai đoạn sau là xà, long, hải, thuỷ gọi là Việt Long.

Việt Long
a. Khu vực
Giai đoạn này vận hành tràn trên hai châu Kinh và châu Dương. Châu Kinh cũng gọi là Kinh Man sẽ mang tên nước Sở thời Xuân Thu. Còn trước đó là quê hương của tiên tổ ta xưa. Huyền sử ghi rằng con Đế Minh là Lộc Tục là vua phương Nam hiệu là Kinh Dương Vương lấy Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra Hùng Vương. Hùng Vương cai trị nước Văn Lang. Như thế Hùng Vương là con đẻ của Tiên Sơn Nhân và Long Thuỷ Trí. Hai đàng nhân trí giao thoa đẻ ra con rất hùng dũng nên lấy hiệu là Hùng Vương. Còn chữ Kinh Dương Vương xác định bờ cõi Việt Long là hai châu Kinh và Dương nằm dài trên bờ Dương Tử Giang có lần là biên cương của nước Kinh Sở hay Kinh Man.
b. Nội dung
Giáo sư Wiens ghi nhận “về nguồn gốc sử liệu thì nước Sở vẫn liên kết với Việt cũng như với các dân hai nước Ba và Thục” (Wiens 80). Chính vì mối liên hệ mật thiết đó mà cả hai nước Việt và Sở xưa kia là một, nên Hùng Vương nước Sở được dùng làm vua huyền sử nước Văn Lang. Chữ Văn Lang gồm hai nét trời đất giao hội (xem Việt Lý tr.364) ở đây là tiên rồng gặp nhau đẻ ra con là Hùng Vương. Hùng Vương là đức dũng sau trí và nhân.
Trí giả nhạo thuỷ: nên Lạc Long Quân ở thuỷ phủ.
Nhân giả nhạo sơn: nên Âu Cơ đưa 50 con lên núi.
Như vậy xét về cơ cấu uyên nguyên thì triết lý Việt Nho đặt cơ sở xong ở giai đoạn hai này gồm cả Rồng thêm vào Tiên ở giai đoạn nhất. Nhờ đó đã gây nên được một thời hoàng kim quân bình kéo dài trên hai ngàn năm với 18 đời Hùng Vương. Vì thể tiền nhân coi là tổ thì phải hiểu là văn tổ tức tổ trọn vẹn mà J.Legge dịch là The accomplished ancestor, cai trị nước Văn Lang gồm 15 bộ trong đó có bộ Bình Văn… Thời này sẽ dứt với nhà Thục mà ta không cần hiểu vào năm 257-208 mà chỉ cần ghi lại sự sụp đổ của nước Văn Lang. Rồi Văn Lang cố phục hưng ở văn minh Loa thành. Nhưng rồi Loa thành sụp đổ do việc Trọng Thủy từ phương Bắc đem óc xảo quyệt vào. Đấy là quãng mở ra giai đoạn sau là Việt Ngư và Việt Tượng.

Việt Ngư
a. Khu vực
Giai đoạn này cũng gọi được là Việt Chiết Giang thu gọn vào Châu Dương còn châu Kinh thì đã mất rồi. Huyền sử hầu không nói đến giai đoạn này bởi một là đã đi vào sử nhiều rồi, hai là phần lớn người làm ra nước Việt Nam đã đến từ miền Châu Kinh. Còn những người từ miền Châu Dương hay Chiết Giang mà xuống thì vừa ít vừa đã qua giai đoạn quyết định cho nước Việt, nghĩa là nước Việt đã có thể chế của một quốc gia như ngôn ngữ và thói tục riêng. Lẽ thứ ba là lúc ấy Việt Nho đã bị Bắc phương biến chế và truyền bá ra rộng, nên ta có lý để gọi giai đoạn này là “tam ngư”, tức giai đoạn chịu ảnh hưởng của Bắc Phương
thuộc hành thuỷ quê quán của loài cá.
b. Nội dung
Gọi là cá còn vì lý do khác nữa đó là lúc Việt Chiết Giang giỏi nhất trong thuỷ chiến. Người ta nhận thấy vùng này có lối trang trí nóc nhà bằng hình con cá, về sau lan rộng lên Lạc Dương cũng như truyền xuống tới Việt Nam (xem tạp chí sử địa số 4, 1968 tr.93) có lẽ đó là biểu hiện cho nước Việt thời “tam ngư” vì đã làm chúa tể suốt dọc miền duyên hải nước Tàu với đoàn chiến thuyền lớn nhất thế giới. Lúc ấy chưa có đế quốc Trung Hoa mà chỉ có bốn nước là Tề, Tần, Sở, Việt trong đó có lúc Việt mạnh nhất. Thế nhưng sau thời Câu Tiễn thì hết vua tài. Đến đời Vô Cương thì Việt thua nước Sở. Tuy nhiên sau này vẫn còn vùng vẫy nhiều lần nên đến Tần Thuỷ Hoàng phải phân ra ba quận là Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Tượng Quận mở sang giai đoạn bốn là Việt Tượng.

Việt Tượng
a) Khu vực
Có thể vì đó mà giai bốn được gọi là tứ tượng hoặc nữa là thời mà nước Việt Nam mở rộng bờ cõi vào vùng có nhiều voi hoặc là thời tiếp xúc với văn minh Ấn Độ có đạo thờ thần voi gọi là “Ganesha” là vị thánh quan thầy cho mọi thành tựu nên tất nhiên được sùng bái rất rộng (Journal 268). Đấy là giai đoạn Nam Việt với Triệu Đà một nhân vật có chân trong huyền sử do vụ sai con là Trọng Thuỷ đi ăn cắp nỏ thần.
b) Nội dung
Đứng về sử thì Triệu Đà có thể coi như một cố gắng dẻo dai lặp lại nước Văn Lang xưa, bởi không những Triệu Đà thiết lập được một nước có nhiều độc lập chính trị mà nhất là về phương diện văn hóa, vì trong mọi hành vi cử chỉ của ông đã từ bỏ lối Hán để tự đồng hóa với người Việt, cai trị theo lối Việt, đặt quan chức toàn người Việt. Và khi đã mở rộng bờ cõi thì tự xưng là đại tù trưởng các dân Man Di (Wiens 136). Trong gần một trăm năm Nam Việt đứng riêng một nước, các vua kế tiếp đều lấy công chúa Việt nên người Việt trong ba
quận được un đúc thành một khối vững mạnh có bản sắc riêng. Xét thế thì Triệu Đà quả có lòng thành với nền Việt Nho nên được “Bách Việt đáp ứng đứng dưới cờ” (Wiens 137) và dựng lên một nước mạnh làm ngạc nhiên phương Bắc (biểu lộ qua sứ giả Đường Mông). Đó có thể là hình ảnh cuối cùng của một nước Việt Văn Lang huyền bí, nhưng hình như vẫn chưa đến lúc phát triển trở lại nên rồi Triệu Đà cũng như Câu Tiễn xưa không có được người tài giỏi nối nghiệp khiến cơ đồ phải sụp đổ vào tay Hán tộc.


Nền móng triết lý
Trở lên là tóm lược đại cương 4 chặng huyền sử nước Nam với 4 địa vực hết sức co giãn:
Giai đoạn Việt Hồng là trục Ba Thục Việt Nam.
Giai đoạn Việt Long là hai châu Kinh Dương Việt Nam.
Giai đoạn Việt Ngư hay là Chiết Giang Việt Nam. (chú thích 1)
Giai đoạn Việt Tượng là Nam Hải, Tượng Quận, Việt Nam.
Đó là những bờ cõi chập chững trồi sụt không có gì xác định: càng trở về xa xưa càng lu mờ hơn. Chúng tôi không có ý xác định cho bằng nhằm cắm một hai mốc giới để tìm hiểu được nền văn minh của nó. Đó mới là điểm then chốt.
Như trong đầu bài đã nói huyền sử một dân nói lên nền Minh triết của dân ấy. Nền Minh triết của nước Việt Nam cũng chính là nền Minh triết của Kinh Dịch mà then chốt nằm trong ba chữ âm dương hòa. Vì thế nên biểu tượng căn để của Kinh Dịch nói lên sự hòa đó bằng biểu tượng trong âm có dương cũng như trong dương có âm như sau:
Hình vẽ
Có nghĩa là khi nào âm dương hòa thì đạt Minh triết và được hưng thịnh: còn khi âm dương chia lìa sa đọa “thiên địa bất giao nhi vạn vật bất hưng”.
Đó là tóm lược nền Minh Triết Kinh Dịch. Nếu xét kỹ sẽ thấy huyền sử nước ta
đều hợp lực minh chứng chân lý trên. Ở đây chỉ xin kể vài thí dụ. Trước hết tên
nước là Văn Lang thì chính chữ Văn đã nói lên hai nét âm dương giao hội (xem
Việt Lý tr.337). Thứ đến hai chữ Giao chỉ cũng nói lên lòng mong ước cho chỉ
trời chỉ đất giao thoa. Sau đó đến vật tổ cũng nói lên cùng một chân lý tức là
tiên rồng. Tiên đi sát rồng nên ta quen nói “Tiên Rồng” nhập một và đó là nét
đặc trưng của nước ta một nước duy nhất trên hoàn cầu có hai vật tổ nối liền.
Đó là một điều quý trọng biết bao khi chúng ta biết rằng nhân loại đã đánh mất
nét gấp đôi tức trở nên con người một chiều: hoặc duy vật hoặc duy tâm.
Không hiểu nguyên uỷ xa xôi đã có từ khi nào, chỉ biết các nước trên thế giới
chỉ có một vật tổ: nước Tàu là Rồng, Nhật mặt trời, Pháp gà trống, Đức là
phượng hoàng… có lẽ đó là đầu mối sa đọa. Như thế nước nào có hai vật tổ nối
liền thì cũng ngầm chỉ rằng nước đó có liều thuốc vạn năng để chữa bệnh thời
đại của mình. Đó là trường hợp vật tổ của nước nhà. Hẳn tiền nhân đã nhận thức
sâu xa điều đó, cho nên cả đến vật biểu (*) cũng diễn tả chân lý nền móng kia
như sau:
Chúng ta biết rằng tiên có vật biểu là chim, vật bay trên trời ở trên núi; còn rồng có vật biểu là nước là thuỷ phủ, sông hồ. Thế mà hai vật biểu đó lại xoắn xuýt lấy nhau như hai vật tổ tiên rồng. Tức cả hai đều nói lên nguyên lý nền tảng của Dịch Lý là “âm trung hữu dương căn, và dương trung hữu âm căn” cho nên trong chim có nước, chữ Hồng trong Hồng Bàng có bộ thuỷ kép bởi chữ Giang (chữ hán) và Điểu (chữ hán), còn trong Rồng lại bao hàm trời, nên rồng tuy ở thuỷ phủ mà cũng thường bay trên trời nên quen vẽ rồng với mây gọi là
“Long Vây” cho hạp câu quẻ Kiền “Long phi tại thiên”. Chính nhờ sự giao thoa xoắn xuýt này mà nước Văn Lang kéo dài trên hai ngàn năm. Đến các giai đoạn sau vì âm dương chia ly nên nước chỉ kéo dài chừng năm chục năm như những giai đoạn mang quốc hiệu Âu Lạc, Giao Chỉ. Và ở những giai đoạn này danh hiệu chỉ còn là sự mong ước cho âm dương giao hội chứ trong thực tế thì âm dương đã phân ly. Thí dụ ở giai đoạn tam ngư thì cá sẽ không còn giao hội với trời như rồng, tức là không còn biết bay lên, vì cho được bay thì cá phải hóa long, đàng này cá lại hóa tinh để đốc ra thuỷ tinh chống lại với  sơn tinh tượng trời, vì thế tam ngư sẽ bị Lạc Long Quân tiêu diệt.

(*) Vật biểu không còn là vật tổ mà chỉ là biểu thị cho vật tổ khác. Vậy chim có thể một thời là vật tổ nước ta. Nhưng khi tâm thức tiến đến chỗ nhận tiên làm vật tổ thì chim trở thành vật biểu để chỉ thị Tiên, nên vai trò cả hai giống nhau.
Đến giai đoạn tứ tượng lại xuống bậc nữa vì tượng không còn hiểu là tượng linh mà hiểu là tượng voi thế thì còn sa đọa hơn vì cá tuy không biết bay nhưng còn hơn voi ở chỗ có môi trường lung linh uyển chuyển, nên còn trông có ngày hóa long, đàng này môi tr ường của voi là rừng cây nên sẽ biến ra mộc tinh đặt trọn vẹn bốn chân trong cõi hiện tượng chỉ còn biết có ích dụng thô đại:
“cái vòi đi trước
hai chân trước đi trước
hai chân sau đi sau”
nghĩa là cục mịch như thơ quan võ. Vì thế ai dám tâu voi chung với đức ông (ông Hán hoặc ông Tây) thì chỉ còn kiếp “vừa phải đánh cồng vừa phải hốt phân”. Đánh cồng là tha những ý hệ ngoại lai về mà hò la reo rắc, hóa cho nên nước trở nên thối tha tham nhũng chẳng biết bao giờ mới hốt đi cho xong. Xa biết bao với thời của “nước non tiên rồng” đoàn tụ. Từ ngày bước vào đợt Tượng, tuy con Việt Điểu đã mấy lần toan vỗ cánh tung bay qua hồn các bà Trưng bà Triệu… nhưng giáo sư Wiens nhận xét “bao cuộc trỗi dậy đều hỏng vì người Lĩnh Nam tự phá nhau”. Thế là đi đời cái nước Văn Lang man mác với một nền văn hóa uyển chuyển giữa hai chỉ âm dương giao hợp, một thứ văn minh rất cân đối mà nhiều người mong ước tìm lại được đặng chữa bệnh một chiều hiện nay.
Liệu có còn làm nổi chăng. Nhìn lại cổ sử nước nhà ta thấy 4 chặng khác tuợng trưng bằng 4 vật linh là “long li quy phượng”. Long Li là trục dọc Bắc Nam. Còn Quy Phượng là trục ngang Đông Tây. Cả 4 chặng đều vận hành trong vòng sinh sinh đại diễn (nguyên hanh lợi trinh). Ngược lại 4 chặng “điểu, xà, ngư, tượng” thì chỉ đúng được c ó hai chặng đầu, còn hai chặng sau đi vào vòng “sinh diệt” là thành, thịnh, suy, huỷ.
Thành ở Việt Hồng
Thịnh ở Việt Long
Suy ở Tam Ngư
Huỷ ở Tứ Tượng
Ta hỏi tại đâu lại có sự trật đường tai hại như thế thì câu thưa hiện lên rõ rệt là do phía Tây Bắc. Vì trong thực tế thì trục Quy Phượng đã bắt đầu hiện lên trong vòm trời nước Nam.
Quy là thần Kim Quy cho An Dương Vương nỏ thần, còn Phượng (chú thích 2) đi với Mỵ Châu lúc nào cũng mang trên mình bộ áo lông chim. Thế nhưng bị văn minh Tây Bắc mà đại diện là Thục An Dương Vương và Trọng Thuỷ phá hoại lái sang quỹ đạo của vòng “sinh diệt” cho nên Loa Thành sụp đổ, An Dương Vương bị Kim Quy trả lại cho Tây còn Mỵ Châu trả lại cho Bắc là hóa ra giếng nước chứa xác Trọng Thuỷ. Làm thế nào cho Mỵ Châu phục sinh, cho văn minh nước nhà trở lại vòng “sinh sinh” là Quy Phượng? Đấy là sứ mạng của văn hiến. Liệu nước ta có còn tìm ra đủ số văn hiến cần thiết để hiện thực sứ mạng đó cùng chăng?

Chú thích 1
Bài này được viết ra khi chúng tôi đọc tài liệu của giáo sư Wiens. Khi xong xem lại mới thấy tương tự 4 chặng mà chúng tôi đã phỏng đoán “nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng”. Sự trùng hợp này cần được nhấn mạnh vì thứ tự điểu long không bị ảnh hưởng do câu “nhất điểu, nhì xà” mà là do cảm nghĩ khi nghiên cứu. Vì thế nên trùng hợp với câu trên thì chỉ là sự ngẫu nhiên. Và sau đó tôi mới đổi tên hai đợt sau Việt Chiết Giang ra tam ngư và Nam Việt ra tứ tượng. Còn câu “nhất điểu, nhì xà” là tôi trưng theo thứ tự của ông Thái Văn Kiểm
trong quyển “Đất Việt Trời Nam” (tr.82). Có một lưu truyền xếp khác là “nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng”. Thứ tự sau này có tính cách vũ trụ, trong đó điểu biểu thị trời, ngư biểu thị nước (đất). Nếu đem áp dụng vào quá trình hình thành nền văn hóa nước ta thì lúc ấy “nhì ngư” sẽ là giai đoạn văn hóa Viêm Việt tiến lên mạn Bắc nước Tàu mà sách xưa đã nói phận đã nước Việt là hai sao Ngưu Nữ (cả hai đều ở phương Bắc) còn nhân vật tượng trưng sinh quán ở Bắc sẽ là Đế Lai và Âu Cơ nghi mẫu. Còn tam xà sẽ là Lạc Long Quân hay Hùng Vương là con đẻ của non nhân (nhất điểu) nước trí (nhì ngư). Chiều nào thì cũng nói lên cái tinh hoa Kinh Dịch được huyền sử Việt Nam thâu hóa sâu hơn huyền sử nước Tàu. Còn việc thay đổi thứ tự (nhì xà hay nhì ngư) được phép vì tính chất rất co giãn của linh tượng như chúng tôi đã trình bày trong quyển “Loa thành đồ thuyết” (sẽ ra) nhờ đó sự dùng linh tượng hợp cho việc phác họa ra cơ cấu uyên nguyên của nền văn hóa nước nhà được hết sức uyển chuyển và thi vị.

Chú thích 2
Phụng với Loan là một. Hoặc có phân biệt thì cũng rất uyển chuyển như phụng đục loan cái, hoặc phụng sắc xanh loan ngũ sắc… Theo một số nhà bác học thì phụng với trĩ là một (xem Đất Việt Trời Nam tr. 290,292), đều là loại chim vật biểu của Việt Nam cổ đại nên Loan cũng có tên là:
Nam chủ (làm chủ phía Nam)
Chân Tước (tên sao phương Nam)
Thanh phượng (Thanh=Đông)
Hồ hay Hồ ô (Đất Việt Trời Nam, Thái Văn Kiểm tr.290)
Vì chim là vật biểu tiên nên cũng biểu thị nền Minh Triết Việt Nho như tiên. Bởi đó cũng thường đi với các con số 3, 2, 5, 9 thí dụ khi thì nói phượng có lông ngũ sắc hay cửu sắc và cũng bị Bắc phương đàn áp như nền Việt Nho. Thí dụ có người là chiếc lồng chim gáy để nhốt Hồ ô, nhưng vì cánh nó quá dài nên không chui lọt (Đất Việt, 289). Rõ rệt là nên Minh Triết vô ngôn của Việt Nho mà muốn dùng phạm trù hữu ngôn (chim gáy) của Tây Bắc thì không nói lên hết được. Sách Đất Việt có trưng một đoạn cổ thư rằng “một vị Thượng thư đến chào Hoàng Đế và nói: tôi đi du lịch về phía Đông và bắt được con chim Hồ non 9 sắc trong một khu rừng 1000 dặm”. Xem mấy truyện trên đủ thấy huyền sử nhấn mạnh đến vai trò của điểu, và việc điểu bị cưỡng ép: Loan bị đặt trước gương.  Hồ ô bị nhốt lồng quá hẹp. Hồ 9 sắc bị bắt lúc còn non do người của Hoàng Đế. Tất cả đều nói lên vụ Việt Nho bị Hoàng Đế cướp đoạt lúc đang hình thành.


Kim Định  (Triết Lý Cái Đình)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...