Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Huyền Sử - Hùng Sử

HUYỀN SỬ CŨNG LÀ HÙNG SỬ

     Huyền sử là sử chiều sâu, nên cũng gọi là sử hàng dọc, vì thọc sâu vào ý nghĩa của sự việc; trái với sử ký gọi là hàng ngang vì nó bò lan trên sự kiện: nó nhằm ghi các biến cố cá thể nghĩa là chỉ xảy ra một lần nên nó bám sát phạm trù không gian và thời gian, địa danh và niên hiệu vì thế trở thành quan trọng. Huyền sử trái lại vượt thời gian không gian, vì với sự kiện nó chỉ nhằm ý nghĩa là cái gì phổ quát. Huyền sử nhằm gợi lại cái dạng thức tinh thần, cái hồn của một dân, cái đường lối sống căn bản của dân ấy, cho nên chính thực nó là một nền minh triết, hay đạo lý nhưng khác minh triết ở chỗ dùng huyền thoại. Minh triết nói thẳng, nói vắn gọn bằng những câu châm ngôn tục ngữ, trái lại huyền sử dùng biểu tượng như đồ biểu, độ số, huyền thoại. Sở dĩ gọi là sử vì các huyền thoại phần nào dựa trên sự kiện lịch sử, nhưng lại gọi là huyền vì những sự kiện đó không cần thật hết bởi nó đã bị tổng quát hóa nghĩa là đã được róc hết khỏi mọi phạm trù không gian và thời gian, để chỉ còn chú ý đến ý nghĩa, nhưng ý nghĩa không được nói lên cách trực chỉ, mà lại gửi gấm vào số, vào tên gọi thí dụ 18 đời Hùng Vương, nếu đọc theo lối huyền sử thì ta sẽ không tìm xem thực sự có 18 đời Hùng trải dài trên hơn hai ngàn năm chăng, nhưng sẽ tìm hiểu ý nghĩa sao đây, đạo lý nào ẩn tàng trong số 18, ẩn trong tên Hùng, ta sẽ tìm xem vũ trụ quan 18 đời Hùng ra sao, thuộc nhân sinh quan nào? Vũ trụ quan thì có động có tĩnh về thời gian, có tả có hữu về không gian.
     Nhân sinh quan thì có chủ có nô tức là nhân chủ hay vật chủ… Những câu trả lời cho những loại câu hỏi trên sẽ làm nên chân trời quy định ý nghĩa của huyền sử. Hiểu đúng được thì huyền sử sẽ giúp tìm ra được tâm hồn người xưa, dọi nhiều tia sáng vào những huyền thoại vẫn tưởng là vô nghĩa, đem lại cho sử trình tiến hóa của dân tộc một nền thống nhất lẫm liệt, một chiều kích u linh siêu việt cũng như đem đến cho những tiêu điểm vững chắc, những phân biệt thấu triệt mà sử ký hay cả khảo cổ không sao cung ứng nổi. Tuy nhiên hiểu được huyền sử cách đúng mức là việc diệu vợi vì huyền sử bao gồm ý nghĩa siêu linh của đạo lý, củacon người Đại Ngã Tâm Linh vượt tầm lý trí suy luận, nên phải dùng những lời bày tỏ gián tiếp.
     Hỏi tại sao không nói thẳng mà lại nói quanh co rắc rối như vậy? Thưa trong chu trình tiến hóa con người có lúc lên lúc xuống. Lúc xuống thì lẩn sâu vào vật chất mà Truyền Thống quen gọi là mạt kỳ, thời ấy đạo lý nào, triết lý hay tôn giáo nào cũng sa đọa. Huyền sử cũng là hậu quả của một sự sa đọa nhưng tương đối nhẹ nhất vì nó dùng nhân thoại, tức còn duy trì niềm tin con người làm chủ tuy chỉ còn bằng biểu tượng (quên hầu hết hiện thực) ngược với thần thoại như trong hầu hết các văn hóa và đạo lý. Nơi thần thoại con người mất trọn nhân chủ tính kể cả bằng biểu tượng. Nói vậy nghĩa là muốn có huyền sử phải có nhân thoại, vì sử là sử ghi chép việc của người chứ con vật không có sử. Thế mà trong thần thoại con người chưa hẳn là người, mới là trò chơi của thần minh, một đối tượng, một vật thể, nên kể là chưa có sử, nói huyền sử là guợng ép. Những miền chưa đạt được nhân chủ không có huyền sử mà chỉ có vô sử rồi sử ký. Sử ký dễ đốc ra duy sử, mà duy sử là con đẻ của duy lý, là luồng tư duy chối bỏ cõi siêu nhiên không biết chi đến thế giới tâm linh nữa, hay nếu có thì cũng quan niệm theo những phạm trù hiện tượng duy vật mà đã duy vật là đánh mất nhân tính còn đâu chủ quyền về vận hệ mình mà gọi được là nhân chủ. Đã không có nhân chủ làm sao có được huyền sử. Xem thế đủ biết sự giải nghĩa huyền sử là việc khó khăn diệu vợi. Sự nhận thức những cái khó khăn đó sẽ giúp vào việc giải nghĩa huyền sử.
     Để được vậy ta hãy nhìn bao trùm sử trình của tâm thức con người trên đường tiến hóa: ở đợt thấp nhất chỉ có sự vật, lên một đợt nữa là sự kiện, lên nữa là ý niệm, tiếp đến là cơ cấu và các mối tương quan. Sau cùng đến chữ Tương viết hoa. Các sự việc cũng như mọi biến cố bày ra trước mắt ta thì có muôn vàn, đó là sự vật. Khi ta chú ý đến một số sự vật, một số biến cố thì những cái đó trở nên sự kiện. Khi ta đem sự kiện đó róc hết những cái bám vào chung quanh như các phạm trù không gian và thời gian với các tuỳ thể của nó thì là ý niệ, ý niệm như vậy chỉ còn là cái khung của sự kiện, nó đã trở nên trừu tượng, mất hết những phẩm tính khả giác như mùi vị, màu sắc, tức mất tính chất tình tứ có khả năng lay động tâm hồn. Nhưng bù lại ý niệm trở nên dụng cụ chuyên biệt của cái nhìn trong suốt, có khả năng liên hệ với các sự kiện khác. Cái nhìn càng trong sáng, càng cất lên cao thì càng nhìn ra được những mối liên hệ nằm ngầm. Chính sự nhìn ra những mối liên hệ này quyết định các bước tiến của con người. Con vật không tiến vì chúng nhìn ra rất ít liên hệ. Nếu ta treo mấy quả chuối ở chỗ cao, hoặc ở nơi ngăn cách, và để những đồ khều quả chuối ở quanh đó thì nhiều con vật chịu đói chứ không biết dùng que lấy chuối mà ăn, chỉ có một vài loài khỉ là biết lấy quen khều chuối, có con biết lấy ghế để ở một góc nhà đưa lại gần cửa sổ đứng lên để chui ra ngoài. Con người nhìn ra nhiều tương quan hơn nên chế tạo ra rất nhiều đồ vật đủ loại để làm nên các bước tiến lên đài văn minh: đồ đá cũ rồi đá mới, nông nghiệp rồi kỹ nghệ, công nghiệp rồi điện tử… Mỗi bước tiến thành bởi những liên hệ được khám phá. Trong phạm vi thuần tuý lý thuyết cũng vậy: tự ý niệm ra tư tưởng, từ tư tưởng ra ý thức hệ, tứ ý thức hệ ra cơ cấu…
     Tóm lại sự vật chỉ có cơ cấu đối với tâm trí ở một trình độ thức giác nào đó. Vũ trụ mà không có thức giác của con người thì không có cơ cấu với các phẩm chất, các giá trị đi kèm. Sự vật nọ kia có giá trị là do cái nhìn của con người gán cho, nhìn thấp trong đợt vô thức chỉ thấy có sự vật, nhìn lên cáo dần thì sự vật biến ra sự kiện rồi ra ý niệm, sau cùng là cơ cấu với các liên hệ của nó. Cuối cùng phải nhảy ra khỏi vòng vây của lý trí mới thấy mối Tương Quan nằm ngầm nối kết hết mọi sự vật vào một liên hệ căn bản ràng buộc tất cả trời, đất, người thành một thể (thiên địa vạn vật nhất thể). Kinh Hùng gọi đợt này là Cánh Đồng Tương. Phải đạt đến Cánh Đồng Tương mới mong hiểu được ý nghĩa huyền sử.
     Phác họa sơ qua con đường tiến của tâm thức con người như thế để dễ thấy rằng huyền sử là một khoa học cao cả nên sự giải nghĩa phải được chú trọng nghiêm chỉnh vô cùng. Sau đây chúng ta sẽ dượt qua ít điểu kiện phải có để giải nghĩa huyền sử áp dụng vào Kinh Hùng được coi là một huyền sử thượng thặng, nên Hùng sử cũng chính là Huyền sử.

LUẬT QUAN TRỌNG ĐỂ GIẢI NGHĨA HUYỀN SỬ

     Luật đó là phải quy chiếu vào cái toàn thể, vào cái môi sinh tinh thần của những huyền thoại để tìm ra ý nghĩa: tức phải chú ý đến cả vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan: các ý nghĩa gán cho huyền thoại không được đi ra ngoài cái toàn bộ nọ. Để cụ thể hóa khuôn mặt của cái toàn thể, triết lý An Vi đưa ra 4 tiêu điểm là từ, tượng, số, chế.
Từ là lời nói, ở đây hiểu là các huyền thoại thuộc thời sơ nguyên, nhiều khi có cả sáng thế ký (cosmogony) như truyện Bàn Cổ. Với Lạc Việt thì căn bổn hơn hết là 15 truyện trong Kinh Hùng. Ta sẽ hỏi Kinh Hùng có Nhân Chủ tính chăng và ta sẽ phải ngạc nhiên một cách kinh hãi và thích thú là tất cả 15 truyện mang đậm tính chất nhân chủ. Thế mà không phải một hai truyện lẻ tẻ tản mát, nhưng là một chuỗi 15 truyện được thâu lượm vào thời duy sử nghĩa là vào thời đã quên ý nghĩa huyền sử. Điều đó chứng tỏ tính chất lẫm liệt của nhân chủ tính trong các truyện. Mở đầu không có thần thoại nào hết mà đi liền vào nhân thoại tức là các anh hùng văn hóa có đầy hoạt lực để tranh đấu với thần thoại với bái vật. Về điểm này không có gì hùng tráng hơn ba vĩ tích của Lac Long Quân khi diệt Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh đặng dành lại quyền làm chủ cho con người. Tiết Liệu xếp đặt trời đất, tức bánh trời để trên bánh đất, làm liên tưởng đến ông nội Bàn Cổ đã tạo lập ra đất trời. Đó là nền nhân chủ đến cùng cực mà biểu lộ bình dân của riêng chi Lạc Việt là Thánh Dóng, cũng có tên là Xung Thiên Thần Vương. Các huyền thoại này được thu thập vào quyển Kinh Hùng.  Nên Kinh Hùng đại diện cho Lời (Từ).
Tượng thì có những cặp đôi: uy nghi cũng có, mà cận nhân tình cũng có như: nước lửa, núi sông, ông Cồ bà Cộc, ông Đùng bà Đà… những cặp đối đó đã kết tinh lại trong cặp đôi Tiên Rồng với tính cách thi vị mênh mông, một cặp đôi đầy biến ảo và thấu nhập vào hết các ngõ ngách của cuộc sống: từ mỹ thuật cho đến thể chế, ngôn từ, thói tục… tha hồ cho con cháu tìm hiểu.
Cặp tượng này sẽ kép nét lên mà ra bánh dầy bánh chưng hay là tròn vuông tương hội. Những tượng này đã được đúc kết lại trong Trống Đồng nơi các cặp đồi được biểu lộ cách huy hoàng như chim với nai, con dài con vắn, con đi lẻ con đi cặp hai, con đực con cái… Mặt trống chia ra hai mảnh, rồi mỗi bên là lẻ chẵn (nóc nhà một chim bên kia hai chim) vòng sát ngoài có 3 đôi chim bên kia, 4 đôi bên này. Đó là cặp số 2-3 kép lên thành 3-4, 3 tròn 4 vuông, số của bán trời bánh đất. Như vậy Trống Đồng phải đươc coi là cái Tượng chói chang của huyền sử nước Việt.
Số. Về số thì phải tìm trong tượng, phổ biến hơn cả là số 2 với vũ trụ quan động: muốn động phải có 2, có âm có dương chứ duy dương hay duy âm đều bất động. Vì thế số 2 được quan trọng hóa bằng diễn tả ra rất nhiều cặp đôi như núi sông, nước lửa, đất trời, đực cái…
Số 3 chỉ con người nhân chủ tức không lệ thuộc vào bên nào: không duy dương cũng không duy âm, không duy trời cũng không duy đất nhưng đứng giữa kiêm cả hai nên là Ba. Số 3 được biểu thị trong trống Đồng bằng các hình tam giác gốc (xem Sứ Điệp Giải rộng) và ẩn trong hai mảnh trống ấp lấy mặt trời ngự ở trung cung thành ra ba, hai mảnh là lưỡng nghi, còn trung cung là vầng thái dương đóng vai thái cực.
Số 5 là 2 và 3 cộng lại thành ra ngũ hành. Ngũ hành là bộ số có ý nghĩa siêu linh nhưng đã bị quên trọn. Vậy ý nghĩa đó nằm trong hai bộ số 3 và 2. Số 3 chỉ con người đầy tác động tính nên gọi là một trong tam tài (tài là tác). Số 2 chỉ lưỡng thê= hai đời sống, một của thế giới hiện tượng, một nữa của thế giới siêu linh mà xưa kia kêu là “hình nhi thượng” tức bên trên hình tượng. Cần con người phải sang qua sông để đáo bỉ ngạn, Kinh Dịch kêu là “lội qua sông lớn” (thiệp đại xuyên). Phải hiện thực được bước lội qua sông này mới tới cõi con người Đại Ngã. Vì thế ở những cuộc hát trống quân sơ nguyên có cuộc “lội qua sông”: khi hai cô cậu ưng nhau rồi thì lội qua sông để làm động tác truyền sinh đặng sinh ra con người nhân chủ. Do ý nghĩa vòng vo như thế nên hành ngũ (trong ngũ hành) có tính cách u linh trống rỗng như đã bàn kỹ trong quyển Sứ Điệp.
Sau ngũ hành là mấy bộ số kép khác như số 9. Đó là do 3*3 mà ra, rồi số 18 là 2*9: 18 đời Hùng Vương, 18 ngàn năm của Bàn Cổ, 18 thước cao của con ngựa Thánh Dóng, 18 đôi chim ở vòng ngoài cùng của Trống Đồng…
Các số này sau được kết tinh vào Kinh Dịch mà khởi thuỷ là “kinh vô tự” vì chỉ dùng toàn số 2, 3, 5, 9 (nó chỉ trở nên kinh hữu tự từ lúc Tàu hóa tức Dịch gọi là của Văn Vương và Khổng Tử). Vậy là ta có thể coi Kinh Dịch như nơi kết tinh của số.
Chế là các thể chế, tục lệ mà nơi tập trung sống động là cái làng Việt. Làng là một nấc thang đi lên nước nên tiền nhân nối liền làng vào nước gọi là làng nước, cũng như đã nối liền nhà với nước gọi là nhà nước. Nối liền như thế là không cho phép quan niệm nước tách biệt khỏi nhà như trong lối chuyên chế quen lấy thế nước để bóp nghẹt tỉnh nhà, trái lại phải quan niệm nước theo mẫu mực nhà. Xưa vua quan được gọi là cha mẹ dân (phụ mẫu chi dân) là theo ý đó; cũng như ta thấy lối xưng hô trong gia đình áp dụng cho hết mọi người trong nước cũng vì ý đó. Dù với người không quen ta cũng xưng là bà, ông, anh, chị, chú, bác mà sâu xa hơn cả là hai chữ đồng bào. Để được gọi mọi người trong nước là đồng bào thì phải có huyền thoại bọc trứng Âu Cơ để chỉ mọi người cùng chung một mẹ sống trong tình nhà là đùm bọc, san sẻ, yêu thương, bình sản, lấy chữ hòa làm lý tưởng. Người ta cũng có thể gọi mọi người cùng nước là đồng hương nhấn mạnh trên đất nước (quê hương) nhưng tiền nhân ta đã chọn hai chữ đồng bào là nhấn trên mẹ (đất mẹ) để đặt nổi mối tình người, tình nhà, tình nước. Hiện nay người mình đang có khuynh hướng dùng chữ đồng hương thay cho đồng bào. Dùng thế có thể vì nghe hay hơn, mới hơn, “văn minh” hơn là chữ đồng bào, nhưng xét sâu xa thì gọi thế là do sự dẫn dắt của tiềm thức cộng thông không cho phép dùng hai chữ đồng bào nữa, bởi vì truyện mẹ đẻ trăm con đã bị cho là quái đản trâu ma: tình nước tình nhà hiện đang bị phá huỷ tận gốc. Vậy thì nên gọi là đồng hương nghĩa là những người cùng sống trong một mảnh đất như nhau: nơi ràng buộc nhau chỉ còn là đất đai bên ngoài, hoàn toàn vật chất chứ còn đâu nữa tình người, tình gia tộc sâu thẳm tự hơn bốn ngàn năm mà được phép gọi là đồng bào. Đó là một thí dụ hiểu sai, còn mấy điểm hiểu sai nữa rất trầm trọng sẽ được bàn tới trong ghi chú của  bài Hùng Việt Sử Ca ở chương dưới.
Đại để muốn tìm ra ý nghĩa của huyền sử thì phải quy chiếu vào cái toàn thể. Cái toàn thể đó chia ra bốn mục: từ, tượng, số, chế. Cả bốn đều có nơi kết tinh đó là:
Kinh Hùng cho Từ
Trống Đồng cho Tượng
Kinh Dịch cho Số
Thôn làng cho Chế.
Với 4 kết tinh đó, huyền sử Việt đã vươn lên trên hết mọi huyền sử để trở thành một Huyền sử thượng thặng và do vậy có thể nói Huyền sử cũng là Hùng sử.

Ý NGHĨA CHỮ HÙNG

     Bây giờ chúng ta hướng suy tư vào chữ Hùng vì là chữ then chốt trong huyền sử nước ta. Muốn hiểu chữ Hùng cho đúng nghĩa phải vượt qua những nghĩa thường nghiệm như hùng dũng trong chiến trường, hay trong những công việc nguy hiểm như ta thường hiểu về các anh hùng. Đó chỉ là những nghĩa luân lý thông thường chưa phải là chính. Nghĩa chính phải là nghĩa chỉ sự thắng chính mình, khó hơn thắng kẻ địch gấp bội. Thắng quân thù có thể chỉ là cái thắng khí huyết. Anh hùng trung thực khó hơn nhiều: phải là thắng chính mình để nắm vận mạng mình, để tự đạo, tự đạt, tự thành = self-achievement, rồi từ đó tiến lên nghĩa siêu linh ở đợt Tam tài đứng ngang cùng trời đất. Nếu trời là chủ, đất là chủ thì người cũng là chủ, như một ông vua độc lập không ỷ lại vào trời hay đất nhưng tự mình làm chủ lấy mình đó gọi là nhân chủ. Đó mới là ý nghĩa chữ Hùng trung thực. Đó mới là đợt cao nhất kể cả trên cấp tối cao siêu linh, nên con người phải mất bao thời gian mới đạt tới sự hiểu biết nọ. Hãy lấy cặp đôi sông núi mà xét thì thấy hai cặp sông núi đối đáp mà ở đầu nền văn hóa nào cũng thấy xuất hiện, nhưng rồi thường núi chỉ là nơi ngự trị của thần linh, còn sông thì thường có Hà Bá như bên Tàu. Núi Olympia bên Hy Lạp, núi Meru bên Ấn Độ toàn là nơi ngự trị của thần minh nghĩa là thuộc đợt bái vật, nó đè nặng trên con người như ta thấy rõ trong đền núi Đế Thiên, có đền, có núi, có sự chết (để quàn xác vua) có cõi âm ti… tất cả những yếu tố đó tập hợp lại đè trên lưng con người (xem bài IV trong Sứ Điệp) biểu hiện bằng sự vắng bóng tượng thần nữ, y như thần nam Lokesvara bên Ấn, đến khi sang đất Việt nho được thở bầu khí nhân chủ mới biến thể ra thần Nữ Quan Thế Âm đầy tình mẹ. Đó là hậu quả của đức Hùng siêu linh. Nhờ có đức nọ nên núi trở thành nơi ở của tiên mẫu gọi bóng là Phong Châu, còn nước trở thành nơi ở của Long phụ, cả hai gặp nhau trên Cánh Đồng Tương để sinh ra con Hùng mà bản chất là vua từ trên cấp tối thượng nghĩa là vua sán cùng trời đất.
     Cho nên mấy chữ “mẹ tiên cha rồng” đã hàm tàng sẵn một sử trình đi lên của nhân chủ vừa được phác họa. Còn cần phải xem tính chất của kẻ cư ngụ. Ở những nền văn hóa du mục thường là những con ác thú được chọn làm vật tổ như sư tử bên Babylon, bò đực bên Hy Lạp, rắn bên Ấn Độ… Tất cả đểu đóng vai thần lấn át con người: đấy là bước một.
     Bước hai là bỏ ác thú dính sát vào đất để nhận chim đó là bước tiến hơn, vì chim bay được lên trời cao hơn thú một bậc, nhưng cũng còn là vật tổ.
     Bước cuối cùng chim trở nên vật biểu, không còn là vật tổ nữa, vì người đã lấy lại quyền làm chủ, làm nhân chủ, nên chim phải lùi xuống làm vật biểu và phải bàn giao cái đức tính của chim sang người như có cánh, bay cao, đẻ trứng, trong sạch (cò trắng, hạc trắng). Người mà có những đức tính của chim thì phải mang tên khác đó là tiên. Bước này mới thấy thực sự xảy ra ở trong sử Việt tộc nơi chim trĩ chuyển sang chim Hồng Hộc, cũng có tên là thiên nga để chỉ sự bay cao tận trời. Nhưng Hồng, Hộc hay hạc lại là những loại chim nước có thể hội thông được với rồng vốn ở thuỷ phủ, tức là xuống đến đáy biển chỗ cùng cực thấp, vậy mà cũng giao hội được với chỗ cực cao cho nên sự giao hội này gọi là “Giao Chỉ”, chữ Chỉ viết hoa để chỉ trời đất giao hội. Đó là bước căn bản làm nên con người nhân chủ được định nghĩa là sự giao hội của đức trời đức đất: “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”. Đấy quả là một cuộc thái hòa quá ư họa hiếm. Nhiều nơi chỉ đọng lại ở đợt ác thú không có chim. Ít nơi có chim như ở văn minh Ấn Độ có chim Garuda và rắn Naga đã phác họa ra hai nét tiên rồng nhưng rồi chim săn rắn nghĩa là đối kháng, không xảy ra vụ gặp nhau trên Cánh Đồng Tương như mẹ Âu với bố Lạc. Vậy cũng còn cao hơn các văn minh kia chỉ có một con duy nhất và thường là loài 4 chân như sư tử, gấu, voi, bò đực… đôi khi lên đến đợt chim thì dừng lại ở đó như chim ưng ăn thịt, hay chim cú của Hoàng Đế mới chán: sa vào tội ăn thịt mẹ cha. Như vậy hiện tượng Tiên Mẫu Long Phụ gặp nhau trên Cánh Đồng Tương quả là họa hiếm: có thể nói là độc nhất vô nhị. Chữ Tương viết hoa để chỉ một bước tiến vượt bậc là nhìn ra được mối liên hệ ngầm giữa trời cùng đất. Đó là cái nhìn thấu triệt. Phải vượt đợt hiện tượng mới thấy được liên hệ siêu hình giữa người với trời đất, nên Tương quan đó phải được viết hoa. Vì thế mà Tương quan này rất hiếm. Vậy mà Tiên Rồng gặp nhau khắng khít và cách phong phú được diễn tả bằng sự đẻ một trăm con! Sai mắn biết mấy là cuộc gặp gỡ của mẹ tiên cha rồng trên Cánh Đồng Tương.
     Như vậy tên Hùng Vương bao hàm cả một tiến trình từ vật đến chim, từ chim duy dương đến chim nước để đi đến người, để ngừơi thành Tiên trên núi Phong Châu hay Ngũ lĩnh tức một quá trình biến núi của thầnlinh thành nơi ở của con người, con người chia nhau làm chủ cả nước cả non: cả non Nhân lẫn nước Trí để đẻ ra con Hùng. Hùng lên ngôi vua: vua chính mình cũng như vua nước vua non, vua ngang với Trời cùng Đất và vì vậy xứng đáng làm vai then chốt của Hùng sử cũng là Huyền sử.
     Theo đó thì huyền sử họa hiếm dường bao, vì huyền sử là sử của con người Đại Ngã Tâm Linh. Nếu không đạt đợt đại ngã mà chỉ ở lì lại đợt con vật thì không có sử. Có lên đến đợt lý trí của phàm ngã thì cũng chỉ mới có sử ký, phải vươn lên đợt tâm linh mới có huyền sử. Vì sự hiếm hoi như vậy nên Hùng Vương hầu như là trường hợp hạn hữu trong lịch sử văn hóa loài người, vì thế ta có thể nói Hùng Việt Sử Ca cũng chính là Huyền Việt Sử Ca. Nói khác nước Việt là nước thiêng tiên rồng: giàu chất tâm linh hơn cả. Ngày nào con người biết trở lại nguồn cội của mình sẽ thấy cái kho tàng quý vô biên tàng ẩn trong những trang huyền sử của  nước Việt. Trong dĩ vãng dù con cháu đã mất ý thức về chiều sâu nọ, nhưng ơn ích trên bình diện xã hội cũng còn rất đáng nể. Sau này Nho đã nhờ công thức Việt Đạo mà được tiếng khen là đã đưa vào sử trính nhân loại một sự biến đổi lớn lao nhất, đó là một con người có nhân cách phổ biến, một kẻ sĩ mẫu mực, một người quý phái tinh thần có lẽ lần đầu tiên xuất hiên trên mặt đất như ông Lewis Mumford đã nói (trong quyển Transformation of Man. Edit. Harper and Row, N.Y. 1965 p.72): “Confucius brought about a change of the greatest magnitude… a universal personality, the archetypal scholar and gentleman: perhaps the first rounded incarnation of this type”. Mẫu người này đã sáng lập ra một lối nhân trị dựa trên đức tính không đâu có hết nên học giả Fairbank đã dùng từ ethocracy để chỉ lối cai trị đặt nền trên đạo lý tâm linh này (xem Chinese Thought and Institutions by John K. Fairbank, Universisty Chicago Press, 1959 p.7)

THỜI ĐẠI CỦA HUYỀN SỬ

     Đã nói rằng huyền sử vượt phạm trù thời gian không gian nên các niên hiệu địa danh không giữ vai trò chính như trong sử ký, tuy nhiên nó vẫn là một loại sử cần đến một số tiêu điểm mập mờ thấp thoáng, với niên đại và biên cương hết sức co giãn. Vì thế ta cũng nên xét đến niên đại coi như những mốc lớn chỉ sự trước sau (ordre de grandeur) với một không gian trồi sụt (nghĩa là bờ cõi biến đổi qua bao ngàn năm nên biên giới Châu Kinh với Châu Dương (của Man với Di) có thể sai chạy cả ngàn cây số là ít).
     Vậy huyền sử nước ta khởi đầu từ Thần Nông “cháu ba đời vua Thần Nông tuần thú phương Nam”. Tuy đây chỉ là một câu vắn tắt nhưng lại chứa cả một nội dung dài dằng dặc mất hút vào đêm tối dĩ vãng và cả hàng nhiều ngàn năm, nó gói ghém tính chất căn bản của nền văn hóa nước ta: là nông nghiệp, ngược với văn minh du mục đặt tên sự săn bắt như các nước miền Lưỡng Hà hoặc vùng thảo nguyên. Các vùng này sau đã bị tinh thần du mục lấn át tuy cũng có nông nghiệp nhưng là lúa tắc (tắc và thử thuộc loại lúa mạch, lúa miến) như của Tàu lúc xuất hiện với ông Hậu Tắc (the prince of millet).
     Thần Nông cũng có tên là Viêm Đế, dân gọi là Viêm tộc, nước là Viêm bang, kinh Phật dịch là “Nhật chủng” thuộc hỏa đức (quẻ li) với chim trĩ thuần hoả bay theo hướng mặt trời. Đó là loại chim của Việt lúc còn thờ mặt trời, nên có sách xưa gọi chim trĩ là “tuỳ dương Việt trĩ” = con chim trĩ của chủng Việt bay theo hướng mặt trời Viêm Đế, Viêm tộc, Viêm bang là thuộc giai đoạn này. Vậy đừng lầm lẫn cho Viêm Đế là khác với Thần Nông, cũng đừng nghĩ Thần Nông là người Tàu. Thần Nông chính là điền tổ của Viêm tộc chứ không phải của người Tàu. Người Tàu sau này đã đưa ông Hậu Tắc ra làm điền tổ. Đó là chuyện mãi về sau cuối đời Đông Chu.
     Thần Nông ở vùng Thái Sơn nên còn có tên là “Liệt Sơn” (núi Oanh Liệt). Liệt Sơn cũng là quê hương của Phục Hy, vì thế Phục Hy còn mang tên là thanh tinh= rồng xanh, ý nói ở phía Đông cùng với Nữ Oa quê ở Đồ Sơn (cùng quê bà vợ ông Vũ). Đồ Sơn là tên cũ của Cối Kê (kinh đô Việt Chiết Giang) cũng gọi là Miêu Sơn (đôi khi đọc mao sơn cho hợp vần thơ) tức liên hệ với Tam Miêu, Cửu Lê. Đấy là thời một, thời Viêm tộc còn ở rải rác khắp miền đất mênh mông mà sau này là nước Tàu. Thời Viêm tộc được kết thúc vào quãng giữa thiên niên kỷ thứ bốn trước. Truyền thống ghi niên đại Thần Nông là năm 3320-3080 tr.cn (không nên nhận niên đại “khoa học” 2737 vì họ không kể đến Viêm tộc). Niên đại lưu truyền không có tính cách xác đáng của sử ký, nhưng dùng được cho huyền sử để chỉ sự trước sau. Đây là chặng đầu của huyền sử nước ta được nối với đại chủng Viêm tộc mà giai đoạn sáng thế ký là Bàn Cổ (Bàn Cổ của Việt tộc xem ghi chú trong đầu quyển Nhân Chủ) rồi mới tiếp đến giai đoạn Tam Hoàng trong đó có Thần Nông. Nếu không kể Bàn Cổ với các ông Hữu Sào… thì Tam Hoàng là giai đoạn đầu, Việt tộc xuất hiện tự đấy gọi là Hoàng kỷ. Còn Tàu xuất hiện vào thời sau gọi là Đế kỷ với Hoàng Đế.
     Chặng hai xảy ra khi “Hoàng Đế chiến Si Vưu” tức là manh nha sự xuất hiện của dân Tàu xét như một dân tộc. Hoàng Đế (-2697) đại diện cho Hoa tộc khởi đầu nổi lên xâm lấn đất của Li (Si) Vưu. Chính là Li Vưu (Li là rồng vàng như trong câu Lân Li Quy Phượng). Hoàng Đế chiến với Li Vưu tức là chiến với Thần Nông, dân của Li Vưu gọi là Cửu Lê, đó là một phần dân của Viêm tộc. Vì sự xâm lăng này mà có cuộc “Nam tiến” hoặc muốn nói là rút lui về miền Nam cũng được. Đại biểu của trào Nam tiến là Đế Minh dánh dấu sự Việt tộc tách khỏi đại khối Viêm tộc xảy ra vào thời Đế Minh gặp Vụ Tiên lập ra họ Hồng Bàng.
     Niên đại họ Hồng Bàng được truyền lại là năm Nhâm tuất (-2879) trước cả Hoàng Đế và hơn thế nữa bao gồm cả ba chặng trên (Thần Nông, Đế Minh, Hồng Bàng). (1)
(1) Các chữ Lê (Cửu Lê), Lộ (Lộ Bàn cũng đọc Ban, Lộ Bộc), Lộc (Lộc Tục), Lãm (Sùng Lãm), Lạc (Lạc Long, Lạc Địch, Lạc Việt), Lai (Đế Lai, Lai Di…), Lang (Văn Lang) dùng chủ âm “L”.
     Đó là một thứ tiêu điểm vi vu trong đêm trường của thời khuyết sử, nhưng tạm dùng được trong phạm vi huyền sử nơi mà địa danh cũng như niên hiệu cần được hiểu cách rất co giãn. Niên hiệu 2879 cho việc sáng lập họ Hồng Bàng nên dùng hơn là niên hiệu của Nghiêu Thuấn (2333-2148) vì đây cũng là những huyền thoại. Nghiêu Thuấn không có chút chi thuộc sử ký mà chỉ là những “nhân vật” huyền sử do óc của Khổng Tử sản sinh, nên phải xét “máu văn hóa” chứ không xét máu chủng tộc và lúc ấy mới thấy đó là những dạng thức đầu tiên của Việt Nho. Ông Thuấn nổi nhất về hai điểm là chữ hiếu và nhạc thiều thì cả hai thuộc dòng Viêm Việt, nhất là nhạc thì Thuấn dùng ông Quỳ là người Viêm Việt. Sách Sơn Hải Kinh cho Quỳ với Long là một. Ông Quỳ chỉnh đốn lại luật ngũ âm, lục luật. Nên nhớ sử Tàu chỉ đáng tin có từ năm 721, trước nữa toàn truyện hư cấu suy luận, càng về xưa càng trở nên hư cấu, không được như sử Việt có huyền sử mà Trống Đồng còn ghi tang chứng rực rỡ về tiên rồng, tức là về Hồng Bàng và Thần Nông (chim Hồng và giã gạo). Ta quen nói Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến, chẳng biết câu này xuất hiện thời nào chứ nếu nay mà nói thì phải kể tự Hồng Bàng nghĩa là “năm ngàn năm” tức là đã lâu đời lắm, trước Nho nhiều. Nho cùng lắm thuộc Nghiêu Thuấn. Trái lại Việt đã có tự Hoàng kỷ mà tang chứng còn tràn ngập. Một nước đáng gọi là văn hiến chi bang hay là nước có nền văn hóa lớn lao là khi trong nước còn tàng chứa nhiều di tích của thánh nhân cũng như những điển chương rực rỡ. Theo đó thì quả nước Việt xứng đáng là nước văn hiến vì kiểm kê được đủ mặt điển chương kiêm đủ từ, tượng, số, chế: từ thì có nhân thoại, khảo cổ có trống đồng, số thì có Kinh Dịch, thể chế thì có làng nước, một thể chế còn sống cách sung mãn.
     Chính với ý niệm lâu dài về thời gian, với ý tưởng thâm sâu về huyền nghĩa đó mà hôm nay chúng ta cung kính đọc lại ít trang đầu của huyền sử trích tự quyển “Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca” một sách đã phần nào được bao quanh bởi hào quang của thời gian (quãng vài trăm năm nay) và số đông tác giả tức được kể là công trình tập thể quãng 5, 6 người (trong đó có ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái). Vì bản này theo tài liệu cảu quyển Lĩnh Nam Trích Quái là sách được thâu lượm vào thế kỷ 15 nên đã có nhiều sự hiểu lầm huyền sử (huyền sử bị hiểu trên đợt sử ký) nên cần thêm phần ghi chú để chỉnh lại ít điều sai chạy. 

Kim Định, Hùng Việt Sử Ca


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

015004 LĂNG KÍNH LƯỢNG TỬ LUẬN LUẬT QUÂN BÌNH VÀ TRIẾT LÝ ÐẠI HÒA Thái Đông A

013001a NHẬP MÔN

013001a    NGƯỜI VIỆT, TIẾNG VIỆT, ĐẤT NƯỚC VIỆT Một con người chưa hiểu biết về gốc gác của mình chưa thể là con người có văn hóa. Cũng n...